tran-ha.duc
04-10-2012, 09:34 AM
LTS: Cùng với vấn đề thu hồi đất nông nghiệp và những bất cập của nó trong các chính sách đền bù, tái định cư khi giải phóng mặt bằng, hay những "lỗ hổng” trong các quy định về giá, ảnh hưởng đến quyền lợi người dân và gây phát sinh tiêu cực thì vấn đề đang đặt ra là làm sao phát huy hết hiệu quả khi giao đất cho người nông dân?
Với thực tế từ một địa phương thực hiện, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Văn Chung, Bí thư Thành uỷ TP Nam Định về vấn đề này.
http://dl.dropbox.com/u/10371220/nhanonglamgiau.com/Media/dat-ruong.jpg
Cần có những quy định cụ thể hơn để bảo vệ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa (Ảnh minh họa: Internet)
Những hiệu quả thiết thực
Nam Định là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước thực hiện việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng trên cơ sở thực hiện Nghị quyết 10 ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về "Đổi mới quản lý nông nghiệp”. Thực hiện Nghị định 64-CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, tỉnh Nam Định đã điều chỉnh bổ sung việc giao ruộng trước đó (thực hiện năm 1991, 1992) cho phù hợp với Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định 64-CP.
Sau gần 20 năm thực hiện công việc trên, có thể đánh giá khái quát: Việc giao đất ổn định cho nông dân nói chung đã đem lại kết quả to lớn. Đó là tiềm năng về đất đai được phát huy, sức lao động trong nông nghiệp được giải phóng, khoa học - kỹ thuật được áp dụng có hiệu quả nên sản lượng lương thực thực phẩm ở địa phương không ngừng tăng. Những năm gần đây, sản lượng lúa của tỉnh Nam Định đạt bình quân ổn định gần 1 triệu tấn/năm (gần bằng sản lượng lúa của cả tỉnh Hà Nam Ninh trước khi giao ruộng cho nông dân). Sản lượng lúa tăng cao do nhiều nguyên nhân: giống, trình độ thâm canh, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, hệ thống thuỷ lợi ngày càng hoàn thiện... Song yếu tố đặc biệt quan trọng là chính sách đất đai quy định giao ruộng đất ổn định cho nông dân.
Trong những năm qua, nông nghiệp nông thôn Nam Định đã có những bước phát triển đáng kể. Giá trị bình quân giai đoạn 2006- 2010, tăng 3,8%/năm. Đã duy trì và phát huy truyền thống thâm canh lúa (năng suất lúa bình quân đạt 118,4 tạ/ha/năm); chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, tăng hiệu quả sản xuất; đảm bảo an ninh lương thực; sản lượng lương thực đạt 950 nghìn tấn/năm; giá trị thu được trên 01 ha canh tác tăng nhanh, năm 2010 đạt 70 triệu đồng. Từ việc giao đất ổn định, cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng đã chuyển dịch đúng hướng. Theo đó, kết quả giá trị sản xuất chăn nuôi và dịch vụ đã tăng từ 38,4% (năm 2005) lên 41,8% (năm 2010), tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 61,6% (năm 2005) xuống còn 58,2% (năm 2010). Cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp hơn, sản xuất ổn định, có thêm một số sản phẩm mới. Bước đầu đã hình thành một số vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung có quy mô vừa, gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cùng với việc thâm canh ruộng, người nông dân chuyển hướng, mở mang chăn nuôi, phát triển theo hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ, phát triển chăn nuôi hàng hoá theo mô hình trang trại, gia trại, quy mô vừa và nhỏ. Toàn tỉnh Nam Định hiện có 644 trang trại, tăng 75 trang trại so với năm 2009. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tại địa phương đạt bình quân 108,4 nghìn tấn/năm.
Cùng với việc giao đất ổn định trên lĩnh vực trồng lúa, chăn nuôi, việc giao đất ổn định trong lĩnh vực sản xuất muối, cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản cũng kích thích nông dân, diêm dân yên tâm sản xuất. Sản xuất muối được duy trì ổn định với diện tích khoảng 860 ha, sản lượng bình quân đạt 90 nghìn tấn/năm. Cơ sở hạ tầng vùng muối từng bước được cải tạo, nâng cấp. Thuỷ sản cũng phát triển khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 11%/năm; sản lượng thuỷ sản năm 2010 đạt 89 nghìn tấn, trong đó nuôi trồng đạt 49 nghìn tấn, đánh bắt đạt 40 nghìn tấn. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục được đầu tư.
Những vướng mắc đặt ra
Bên cạnh những thành quả to lớn từ chính sách giao ruộng đất ổn định cho nông dân thì cũng nổi lên một số khó khăn tồn tại. Đó là việc giao đất trước đây được tính theo nhân khẩu tại thời điểm giao ruộng (chủ yếu là năm 1993). Từ đó đến nay nhân khẩu phát sinh mới không được chia ruộng, trong khi sự chuyển dịch cơ cấu của kinh tế nói chung còn chậm, lao động trẻ trong nông nghiệp ở một số nơi một mặt không có ruộng, một mặt muốn thu nhập cao nên "đổ” về các đô thị, khu cụm công nghiệp ở nơi khác nên đang xảy ra tình trạng lao động trong nông nghiệp chỉ còn người lớn tuổi và phụ nữ chiếm tỷ lệ khá lớn. Bên cạnh đó, trước đây đất giao cho các hộ nông dân thực hiện theo phương châm "có xấu, có tốt, có gần, có xa” nên ruộng đất manh mún, không phù hợp với xu thế tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, xây dựng nông thôn mới. Mặc dù đã thực hiện "dồn điền, đổi thửa” giảm số thửa từ 6,7 thửa/hộ xuống còn 3,1 thửa/hộ nhưng nhìn chung vẫn còn manh mún. Ngoài ra hiện một số người sử dụng đất nay không còn nhu cầu sử dụng nhưng không chuyển nhượng, chuyển đổi (coi đất như của để dành) trong khi một bộ phận nông dân lại không có đất sản xuất do sinh sau thời gian giao ruộng.
Trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, một bộ phận không nhỏ người nông dân bị thu hồi hết ruộng đất, tiền bồi thường đã sử dụng cơ bản hết, việc làm tại các khu công nghiệp hoặc hoạt động dịch vụ không phù hợp với trình độ và năng lực của họ nên lại xuất hiện tình trạng "người cày không có ruộng”; kéo theo vấn đề xã hội khác gây phức tạp. Đây là vấn đề mà mọi cấp, mọi ngành phải đặc biệt quan tâm.
Vấn đề tích tụ đất đai, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất tạo ra các sản phẩm có thương hiệu là vấn đề cốt lõi của nền nông nghiệp nước ta trong quá trình công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Song thực tế việc "dồn điền, đổi thửa” chỉ làm giảm số thửa/hộ, làm tăng quy mô diện tích của thửa đất chứ không hoàn toàn là tích tụ đất đai. Tại Nam Định, rất ít nông dân chuyển nhượng đất nông nghiệp để thực hiện quá trình tích tụ đất đai. Họ coi đó là tài sản gắn bó lâu dài đối với mỗi gia đình.
Từ một số bất cập nêu trên, thiết nghĩ chính sách pháp luật về đất đai đối với đất nông nghiệp thời gian tới, cần thiết phải điều chỉnh bổ sung cho phù hợp. Đó là: Không chia lại ruộng đất sau 20 năm sử dụng (theo quy định của Luật Đất đai), nhưng có thể điều chỉnh từ người không có nhu cầu sang người có nhu cầu để tạo sự công bằng trong nông nghiệp, nông thôn và phát huy hơn nữa tiềm năng đất đai trong quá trình phát triển; Cần có những quy định cụ thể hơn để bảo vệ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với vùng chuyên canh trồng lúa, nếu không sẽ rất khó bảo vệ, duy trì được quỹ đất trồng lúa hiện nay. Đồng thời cần nhanh chóng điều tra đánh giá thực trạng việc làm, đời sống, sinh hoạt... của tất cả những hộ nông dân bị thu hồi đất và các nhu cầu của họ từ khi được giao ruộng đến nay trên địa bàn cả nước; từ đó có chính sách đất đai cho phù hợp với giai đoạn tiếp theo.
Trần Văn Chung (Bí thư Thành uỷ TP Nam Định)
Với thực tế từ một địa phương thực hiện, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Văn Chung, Bí thư Thành uỷ TP Nam Định về vấn đề này.
http://dl.dropbox.com/u/10371220/nhanonglamgiau.com/Media/dat-ruong.jpg
Cần có những quy định cụ thể hơn để bảo vệ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa (Ảnh minh họa: Internet)
Những hiệu quả thiết thực
Nam Định là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước thực hiện việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng trên cơ sở thực hiện Nghị quyết 10 ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về "Đổi mới quản lý nông nghiệp”. Thực hiện Nghị định 64-CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, tỉnh Nam Định đã điều chỉnh bổ sung việc giao ruộng trước đó (thực hiện năm 1991, 1992) cho phù hợp với Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định 64-CP.
Sau gần 20 năm thực hiện công việc trên, có thể đánh giá khái quát: Việc giao đất ổn định cho nông dân nói chung đã đem lại kết quả to lớn. Đó là tiềm năng về đất đai được phát huy, sức lao động trong nông nghiệp được giải phóng, khoa học - kỹ thuật được áp dụng có hiệu quả nên sản lượng lương thực thực phẩm ở địa phương không ngừng tăng. Những năm gần đây, sản lượng lúa của tỉnh Nam Định đạt bình quân ổn định gần 1 triệu tấn/năm (gần bằng sản lượng lúa của cả tỉnh Hà Nam Ninh trước khi giao ruộng cho nông dân). Sản lượng lúa tăng cao do nhiều nguyên nhân: giống, trình độ thâm canh, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, hệ thống thuỷ lợi ngày càng hoàn thiện... Song yếu tố đặc biệt quan trọng là chính sách đất đai quy định giao ruộng đất ổn định cho nông dân.
Trong những năm qua, nông nghiệp nông thôn Nam Định đã có những bước phát triển đáng kể. Giá trị bình quân giai đoạn 2006- 2010, tăng 3,8%/năm. Đã duy trì và phát huy truyền thống thâm canh lúa (năng suất lúa bình quân đạt 118,4 tạ/ha/năm); chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, tăng hiệu quả sản xuất; đảm bảo an ninh lương thực; sản lượng lương thực đạt 950 nghìn tấn/năm; giá trị thu được trên 01 ha canh tác tăng nhanh, năm 2010 đạt 70 triệu đồng. Từ việc giao đất ổn định, cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng đã chuyển dịch đúng hướng. Theo đó, kết quả giá trị sản xuất chăn nuôi và dịch vụ đã tăng từ 38,4% (năm 2005) lên 41,8% (năm 2010), tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 61,6% (năm 2005) xuống còn 58,2% (năm 2010). Cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp hơn, sản xuất ổn định, có thêm một số sản phẩm mới. Bước đầu đã hình thành một số vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung có quy mô vừa, gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cùng với việc thâm canh ruộng, người nông dân chuyển hướng, mở mang chăn nuôi, phát triển theo hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ, phát triển chăn nuôi hàng hoá theo mô hình trang trại, gia trại, quy mô vừa và nhỏ. Toàn tỉnh Nam Định hiện có 644 trang trại, tăng 75 trang trại so với năm 2009. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tại địa phương đạt bình quân 108,4 nghìn tấn/năm.
Cùng với việc giao đất ổn định trên lĩnh vực trồng lúa, chăn nuôi, việc giao đất ổn định trong lĩnh vực sản xuất muối, cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản cũng kích thích nông dân, diêm dân yên tâm sản xuất. Sản xuất muối được duy trì ổn định với diện tích khoảng 860 ha, sản lượng bình quân đạt 90 nghìn tấn/năm. Cơ sở hạ tầng vùng muối từng bước được cải tạo, nâng cấp. Thuỷ sản cũng phát triển khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 11%/năm; sản lượng thuỷ sản năm 2010 đạt 89 nghìn tấn, trong đó nuôi trồng đạt 49 nghìn tấn, đánh bắt đạt 40 nghìn tấn. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục được đầu tư.
Những vướng mắc đặt ra
Bên cạnh những thành quả to lớn từ chính sách giao ruộng đất ổn định cho nông dân thì cũng nổi lên một số khó khăn tồn tại. Đó là việc giao đất trước đây được tính theo nhân khẩu tại thời điểm giao ruộng (chủ yếu là năm 1993). Từ đó đến nay nhân khẩu phát sinh mới không được chia ruộng, trong khi sự chuyển dịch cơ cấu của kinh tế nói chung còn chậm, lao động trẻ trong nông nghiệp ở một số nơi một mặt không có ruộng, một mặt muốn thu nhập cao nên "đổ” về các đô thị, khu cụm công nghiệp ở nơi khác nên đang xảy ra tình trạng lao động trong nông nghiệp chỉ còn người lớn tuổi và phụ nữ chiếm tỷ lệ khá lớn. Bên cạnh đó, trước đây đất giao cho các hộ nông dân thực hiện theo phương châm "có xấu, có tốt, có gần, có xa” nên ruộng đất manh mún, không phù hợp với xu thế tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, xây dựng nông thôn mới. Mặc dù đã thực hiện "dồn điền, đổi thửa” giảm số thửa từ 6,7 thửa/hộ xuống còn 3,1 thửa/hộ nhưng nhìn chung vẫn còn manh mún. Ngoài ra hiện một số người sử dụng đất nay không còn nhu cầu sử dụng nhưng không chuyển nhượng, chuyển đổi (coi đất như của để dành) trong khi một bộ phận nông dân lại không có đất sản xuất do sinh sau thời gian giao ruộng.
Trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá, một bộ phận không nhỏ người nông dân bị thu hồi hết ruộng đất, tiền bồi thường đã sử dụng cơ bản hết, việc làm tại các khu công nghiệp hoặc hoạt động dịch vụ không phù hợp với trình độ và năng lực của họ nên lại xuất hiện tình trạng "người cày không có ruộng”; kéo theo vấn đề xã hội khác gây phức tạp. Đây là vấn đề mà mọi cấp, mọi ngành phải đặc biệt quan tâm.
Vấn đề tích tụ đất đai, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất tạo ra các sản phẩm có thương hiệu là vấn đề cốt lõi của nền nông nghiệp nước ta trong quá trình công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Song thực tế việc "dồn điền, đổi thửa” chỉ làm giảm số thửa/hộ, làm tăng quy mô diện tích của thửa đất chứ không hoàn toàn là tích tụ đất đai. Tại Nam Định, rất ít nông dân chuyển nhượng đất nông nghiệp để thực hiện quá trình tích tụ đất đai. Họ coi đó là tài sản gắn bó lâu dài đối với mỗi gia đình.
Từ một số bất cập nêu trên, thiết nghĩ chính sách pháp luật về đất đai đối với đất nông nghiệp thời gian tới, cần thiết phải điều chỉnh bổ sung cho phù hợp. Đó là: Không chia lại ruộng đất sau 20 năm sử dụng (theo quy định của Luật Đất đai), nhưng có thể điều chỉnh từ người không có nhu cầu sang người có nhu cầu để tạo sự công bằng trong nông nghiệp, nông thôn và phát huy hơn nữa tiềm năng đất đai trong quá trình phát triển; Cần có những quy định cụ thể hơn để bảo vệ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với vùng chuyên canh trồng lúa, nếu không sẽ rất khó bảo vệ, duy trì được quỹ đất trồng lúa hiện nay. Đồng thời cần nhanh chóng điều tra đánh giá thực trạng việc làm, đời sống, sinh hoạt... của tất cả những hộ nông dân bị thu hồi đất và các nhu cầu của họ từ khi được giao ruộng đến nay trên địa bàn cả nước; từ đó có chính sách đất đai cho phù hợp với giai đoạn tiếp theo.
Trần Văn Chung (Bí thư Thành uỷ TP Nam Định)