barry
05-10-2012, 09:38 AM
Cá chình (http://nhanonglamgiau.com/forum/tags.php?tag=ca+chinh) là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn nên có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác. Da và ruột cá có khả năng hô hấp nên ở nhiệt độ <15 độ C, cá có thể sống được khá lâu khi da cá ẩm ướt. Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.
http://dl.dropbox.com/u/10371220/nhanonglamgiau.com/Media/thuysan/ca-chinh.jpg
Cá chình có giá trị rất cao trên thị trường
Cá chình là loài cá rộng nhiệt (từ 1 – 38 độ C), nhưng trên 12 độ C cá mới bắt mồi. Nhiệt độ phù hợp cho sinh trưởng là 13 - 30 độ C, thích hợp nhất là 25 - 27 độ C.
1. Ao nuôi
Diện tích trung bình 800 – 1.200 m2, mức nước trung bình 1,0 – 1,2 m. Bờ ao phải cao hơn mặt nước cao nhất trong ao ít nhất là 60cm. Ao không rò rỉ, nước trong sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa. Ðáy ao là cát hoặc cát bùn.
2. Mật độ thả:
Chỉ thả giống sau khi tẩy dọn ao kỹ. Thời điểm thả từ trung tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 4, khi nhiệt độ nước > 130C. Mật độ thả tùy thuộc vào điều kiện ao nuôi, phương thức nuôi và kích thước cá giống.
Nếu muốn đạt năng suất 15 tấn/ha, thả 12-15 con/m2 (cỡ 20g/con) hoặc 9-12 con/m2 (cỡ 50g/con). Nếu muốn đạt năng suất 100 tấn/ha, thả 300-350 con/m2.
3. Quản lý ao nuôi:
3.1. Thức ăn và cho ăn
Có thể sử dụng 2 loại thức ăn là tươi và thức ăn công nghiệp. Cho ăn theo nguyên tắc 4 định: định chất, định lượng, định thời gian, định địa điểm.
http://dl.dropbox.com/u/10371220/nhanonglamgiau.com/Media/thuysan/ong-tru-an-cho-ca.jpg
Thả các ống để tạo môi trường sống tốt cho cá
+ Định chất: Thức ăn có độ đạm . Nếu dùng thức ăn tươi, cần phải tươi, rửa sạch, sát trùng kỹ sau đó cắt nhỏ mới đem cho ăn. Thức ăn nuôi cá Chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 - 75%, tinh bột 25 - 30% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn tươi sống là cá, trai, hến. Trước khi cho ăn, cần trần cho thịt cá gần chín sau đó dùng dây thép xâu xuyên lại treo trong ao. Cũng có thể bỏ cá vào trong lồng lưới sắt. Nếu cho ăn trai hến thì nên thái thành miếng nhỏ cho ăn.
Thức ăn tổng hợp nên lấy thức ăn động vật làm chính, thí dụ như bột cá, nhộng tằm. Cá Chình không ăn thức ăn chìm xuống dưới đáy bị ô nhiễm, do đó thức ăn tổng hợp không chìm, không bị rữa mới tốt. Nguyên liệu phụ có thể là khô dầu, các chất khoáng, vitamine, bột máu, men v.v... Để cho thức ăn tổng hợp lâu tan trong nước có thể dùng bột củ đậu, khoai lang đánh nhuyễn trộn với thức ăn đã nghiền sẵn.
Bổ sung dưỡng chất:
Thời gian tiêu hóa hết thức ăn của cá Chình là 6 giờ. Thông thường người ta phải trộn thêm vào thức ăn cá Chình một ít men bia, men tiêu hóa đường, elisa của khuẩn đơn bào và vi khuẩn sống trong ruột v.v…
• Men bia: là hỗn hợp các nấm men và bã bia sau khi đã sấy khô. Men bia chứa 40–50% protein thô, 1 lượng lớn vitamine nhóm B và kích tố sinh trưởng chưa biết tên. Có thể phối hợp với tỷ lệ 2 – 3%.
• Men đường mật: Chứa nhiều sinh tố nhóm B, thu được bằng cách phun trong chân không ở nhiệt độ thấp. Có mùi rất thơm, làm tăng tính ăn của cá Chình.
• Elisa của khuẩn đơn bào: thu được trong quá trình lên men đường củ cải, có vị thơm ngọt của men, cho cảm giác ngon, có nhiều các protein, chất khoáng, vitamine và nhiều chất kich thích sinh trưởng chưa biết tên. Chất này dễ tiêu hóa, cá Chình thích ăn. Hàm lượng protein thô trên 65%, chất béo thô trên 4,5%. Tỷ lệ pha trộn vào thức ăn khoảng 1 – 2%.
• Hỗn hợp các vi khuẩn sống bao gồm các chủng Lactobacillus.sp, Pediococcus acidilatici cùng với các chất nuôi cấy. Mỗi gam hỗn hợp này có khoảng trên 120.000 vi khuẩn sống. Nó có tác dụng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng ở phần ruột non và gia tăng nhu động phần ruột già rút ngắn thời gian tiêu hóa thức ăn. Trong ruột cá những vi sinh vật này sẽ cạnh tranh với các vi sinh vật có hại về mặt không gian và chất dinh dưỡng làm cho chúng không phát triển được thậm chí bị tiêu diệt. Đặc biệt là loài Pediococcus acidilatici có tính kháng cự khá mạnh, sức ức chế vi sinh tạp có thể mạnh gấp 10 lần vi khuẩn Lactobacillus.
• Các chất bổ gan, mật:
Để tăng cường chức năng tiêu hóa, khả năng chịu đựng điều kiện chất lượng nước kém do nuôi với mật độ cao hoặc lạm dụng sử dụng hóa chất cần thiết phải bổ sung vào thức ăn một lượng thuốc bắc, axit mật (bile acid) và những chất bổ gan mật khác.
+ Sài hồ (Bupleurum chinense) có tính đắng, hơi hàn, có chứa nhiều steroidal saponins, các loại axit béo thăng hoa, có tác dụng kháng virus, diệt ký sinh trùng và giữ cho gan khỏi bị tổn thương.
+ Bản lam căn (Radix Isatidis) tên tiếng Anh là Indigowoad Root có vị đắng, tính hàn. Thành phần chủ yếu gồm có Indican có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Mỗi kg thức ăn bổ sung độ 10 – 15g thuốc này.
+ Axit mật (Bile acid): có thể xúc tiến hấp thụ mỡ, vitamine, cholesterol. Giải các chất độc trong thức ăn có nhiều mỡ để lâu ngày. Mỗi tấn thức ăn bổ sung khoảng 100g.
+ Định địa điểm: phải cố định vị trí đặt sàng cho ăn. Sàng cho ăn là khung hình vuông kích cỡ 90 x 50 cm căng lưới nilon, mắt lưới to nhỏ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Nên đặt sàng ăn ở chỗ tối, kín gió.
+ Định lượng: Thức ăn tươi mỗi ngày cho ăn 20 – 30% tổng khối lượng cá trong ao; thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp cho ăn 3 – 4% tổng khối lượng cá trong ao. Khi nhiệt độ thấp hoặc quá nóng vào mùa hè (trên 30 độ C) nên giảm bớt khẩu phần. Yêu cầu thức ăn thả xuống sau 20 phút phải ăn hết.
+ Định thời gian: cho ăn 1 lần vào lúc 9 giờ sáng.
5 phút sau khi trộn đều thức ăn với dầu, nước, cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được.
Sàn cho ăn nên đặt ở vị trí giữa hoặc gần đáy, nhưng cũng có thể để sát tầng mặt để tiện quan sát hoạt động bắt mồi của cá. Bên trên sàn cho ăn nên che ánh nắng mặt trời. Cho ăn vào lúc 8 – 9 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.
Đề phòng cá Chình bỏ ăn, có thể dùng các phương pháp sau:
• Phải che nơi cho ăn.
• Cần tăng thêm điểm cho ăn để số cá thể tản mát vẫn có thể tìm được thức ăn.
• Có thể đưa thức ăn vào lồng có kích cỡ mắt lưới khác nhau để cá to không cạnh tranh thức ăn với cá nhỏ.
• Nên có biện pháp phòng bệnh sớm đối với các loại bệnh như: bệnh đốm trắng, trùng bánh xe, sán lá Dactylogyrus v.v…Nếu những loài này ký sinh sẽ làm cho chúng yếu dễ tạo điều kiện con khác ăn thịt.
• Trong cùng một ao nên thả cá giống cùng cỡ, cá nhỏ rất dễ bị cá lớn truy đuổi, suốt ngày trốn tránh, không kiếm được thức ăn. Nên phân loại cá hàng tháng.
3.2. Lọc phân đàn
Định kỳ phân cỡ cá 1 tháng/lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn. Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 - 2 ngày, lùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, không dùng tay bắt cá.
3.3. Quản lý chất lượng nước:
Ao nuôi năng suất 15 tấn/ha cần lắp bộ sục khí 1,5 – 2,0 kw cho 1000 m2. Căn cứ vào thời tiết cụ thể mà mỗi ngày mở máy 3 – 4 lần giúp cho ôxy phân phối đều trong các tầng nước. Trước khi cho cá ăn, nên mở sục khí đề phòng thiếu ôxy cục bộ do cá tập trung ăn tại một chỗ.
Nếu có điều kiện thì nuôi bằng nước chảy. Nếu nuôi trong ao nước tĩnh, cần thay 1/10 lượng nước trong ao khi nhiệt độ cao. Nên thay nước vào lúc trời mát. Khi có mưa to hoặc nước lũ, cần ngừng cho ăn, không thay nước. Trường hợp ao bị nước lũ tràn vào, nên dùng thuốc tím 1,5 ppm hoặc vôi sống 15-20 ppm để ổn định chất lượng nước. Không nên sử dụng nước lũ để thay nước ao.
3.4. Bệnh thường gặp và cách phòng trị:
+ Khống chế tần số cho ăn: Mùa hè cá ăn mạnh nên cũng dễ cho ăn thừa thức ăn. Một khi ăn quá nhiều gan của cá phải làm việc nhiều khiến cho khả năng kháng bệnh giảm, nhất là về mùa hè cá dễ bị mắc các chứng viêm ruột và nhiều chứng bệnh khác vì vậy khẩu phần về mùa hè nên giảm chỉ còn 70-80% so với ngày thường.
+ Sử dụng thuốc phòng trừ dịch bệnh về mua hè cần phải chú ý vì tác dụng của thuốc phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ. Thí dụ thuốc tẩy trùng có gốc clo mỗi khi nhiệt độ nước tăng 10 độ C thì tác dụng của thuốc tăng lên gấp đôi. Vì vậy về mùa hè lượng thuốc sử dụng phải giảm bằng 2/3 hay ½ so với thông thường.
+ Mùa này sử dụng đông nam dược là chủ yếu. Hoạt tính của các loại thuốc này không phụ thuộc vào nhiệt độ, không để lại dư lượng trong sản phẩm. Tiện đây xin giới thiệu 2 bài thuốc đông nam dược như sau:
Phòng trị bệnh viêm ruột: hoàng liên 2 g; hoa kim ngân 5 g; rễ bản lan 5 g; cỏ ngư tinh 5 g; rau rền răng ngựa 5 g; cỏ quỷ châm 5 g; sơn trà dại 3 g; đun lấy nước trộn với mỗi kg thức ăn cho ăn trong 7 ngày.
Phòng trị bệnh nát mang: hoàng liên, đại hoàng, xuyên tâm liên, bản lan căn, ngũ bội tử mỗi loại 5 ppm sắc lấy nước rắc đều khắp ao trong vòng 18 giờ.
3.4.1. Bệnh bại huyết mất nhớt:
Xảy ra trên cá Chình châu Âu (Angilla angilla). Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là thả thưa và lọc cá phân đàn kịp thời. ngoài ra phải khống chế chế độ cho ăn. Không cho ăn quá nhiều. Phải định kỳ khử trùng và điều chỉnh chất nước loại trừ NH3 ra khỏi hồ nuôi. Kịp thời lọc cá bênh ra khỏi hồ nuôi, diệt trừ ký sinh trùng. Khi chữa bênh đầu tiên nên loại trừ ký sinh trùng, khi bệnh phát triển mạnh mới nên sử dụng thuốc kháng khuẩn mới có thể khống chế bệnh tình và giảm tổn thất do cá chết.
3.4.2. Bệnh nát ruột:
Xảy ra ở cá Chình Nhật bản (A. japonica): đã phân lập được 2 loại vi khuẩn là Vibrio gây thương tích và Vibrio cá Chình nhưng chưa rõ tác nhân gây bệnh. Bệnh này thường xảy ra ở những ao nuôi không ngọt hoá hoàn toàn khi nhiệt độ nước xuống dưới 20 độ C, tức là vào khoảng từ tháng 12 đến tháng 4. Khi nhiệt độ nước cao hơn 23 độC, bệnh không xảy ra. Tỷ lệ tử vong của bệnh này khoảng 0,1%- 0,5%. Biểu hiện của bệnh là tia vây xuất huyết màu đỏ, hậu môn sưng đỏ, màu sắc vùng thân ngực bạc sưng lên hoặc rữa nát. Do tốc độ lây lan nhanh làm cho tỷ lệ tử vong cao. Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là giữ cho nước hồ sạch sẽ, định kỳ khử trùng. Khi cá bị bệnh có thể dùng chất khử trùng chứa clo rắc khắp ao. Dùng Oxytetracycline cùng với bột tam hoàng và ngũ bội tử tắm cho cá bị bệnh 36-48 giờ. Tuy nhiên cách trị tốt nhất là nâng nhiệt nước ao lên 23-25 độ C trong vòng 10 ngày bệnh sẽ hết.
3.4.3. Bệnh sán lá:
Đây là ký sinh trùng ký sinh chủ yếu ở mang cá Chình. Ký sinh trùng không trực tiếp gây chết cá nhưng ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi. Nếu số lượng ký sinh trùng nhiều sẽ làm cho mang bị thối rữa dẫn đến chứng bại huyết hoặc mốc nước.
Thông thường do sử dụng thuốc diệt trùng không đúng cách làm cho cá Chình châu Âu bơi lội cấp tốc dẫn đến cá chết do chứng mất nhớt, bại huyết .
Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là tẩy trùng định kỳ. Khi sử dụng phải dùng đúng nồng độ, kết hợp nhiều loại thuốc tẩy cùng một lúc để đề phòng hiện tượng kháng thuốc. Sau khi tẩy trùng phải dùng ngay thuốc giải độc để khỏi ảnh hưởng sức khoẻ cá.
3.4.4. Bệnh trùng quả dưa:
Bệnh này còn gọi là bệnh đốm trắng hiện chưa tìm được loại thuốc hữu hiệu nào thay thế loại thuốc đã bị cấmmà chỉ dùng thuốc đông nam dược kết hợp với hợp chất I-ôt hoá trị cao (5+) 35-60 ml/m3 và muối ăn tắm trong thời gian dài để khống chế. Thay nước 1 lần/ngày, làm liên tục như vậy 3-5 ngày.
3.4.5. Một số bệnh do trúng độc:
a/ Trúng độc do đạm amôn:
Nguyên nghân: do nồng độ đạm amôn và nitrit quá cao dẫn đến trúng độc cấp tính hoặc mãn tính.
Cá bị trúng độc phân tán gắp thức ăn rồi lại nhả ra, bơi lội yếu ớt. Trường hợp nghiêm trọng cá ở tư thế treo thẳng đứng đuổi không chạy. Khi mổ cá phát hiện nội tạng như mật gan, lá lách đều xưng tấy.
Bệnh này thường xảy ra khi nuôi mật độ cao vào mùa nóng, hiện tượng trúng độc mang tính cấp. Mùa đông cũng có thể xảy ra do tiết kiệm thay nước, thả với mật độ cao hiện tượng trúng độc sảy ra từ từ. Ở những nơi có nguồn nước tốt, thay nước được thường xuyên ít gặp trường hợp này.
Trúng độc cấp tính dẫn đến cá chết hàng loạt, trúng độc mãn tính cá chết ít và từ từ nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính ăn và tốc độ lớn cả đàn cá.
Đề phòng bệnh này nên thay nước thường xuyên, giảm mật độ nuôi đến độ thích hợp. Ao nuôi 2 – 3 năm vớt bùn một lần. Mùa hè nhiệt độ cao nên giảm lư\ợng thức ăn.
Khi cá bị bệnh có thể bón vôi với liều lượng 20 ppm, mỗi ngày 1 lần liên tục trong 3 ngày. Rải thuốc tím khắp ao với liều lượng 2 – 3 ppm liên tục trong 3 ngày. Cũng có thể dùng methylengreen-basic-blue 1,5 – 2,0 ppm liên tục trong 2 – 3 ngày hoặc sử dụng chế phẩm sinh học để loại trừ đạm amôn và đạm nitrit.
b/ Trúng độc do lân hữu cơ: Nguyên nhân của sự trúng độc này là do sử dụng quá nhiều thuốc sát trùng có chứa lân hữu cơ hoặc do thuốc trừ sâu dùng trong nông nghiệp vào trong ao qua đường nguồn nước cấp.
Triệu chứng trúng độc nếu nhẹ thấy mầu cá biến thành mầu trắng, ăn bình thường. Nhưng nếu nặng thì số lượng cá trắng thân tăng, sức ăn giảm bớt. nếu vớt cả chuyển sang nơi có chất nước bình thường thì những cá thể này chuyển sang màu bình thường sau 2 – 3 giờ.
Trường hợp trúng độc nghiêm trọng hơn thì đầu cá quay xuống dưới hoặc bơi lùi lại phía sau. Cá biểu hiện bơi lội yếu ớt bị động trôi theo dòng nước tập trung đến cống tháo nước. Thân cá mất nhớt, có thể lấy tay vớt được cá. Khi vớt cá trên tay cá có biểu hiện cơ co rút. Cá biệt có con nhô đầu lên khỏi mặt nước há mồm, sau đó chìm xuống đáy hồ chết.
Cá chết thân cứng, mồm há, mang xung huyết nặng. Giải phẫu cá chết thấy gan có mầu vàng, mật xưng to, ruột xuất huyết. Trường hợp trúng độc này thường sảy ra vào các tháng 7 – 8 lúc nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất. Biểu hiện nhiễm độc rõ nhất đối với cá cỡ nhỏ dần đàn đến cá lớn.
Bệnh này loài cá Chình nào cũng mắc. Tỷ lệ chết và tổn hại kinh tế rất cao. Muốn tránh hiện tượng này cần lưu ý đến chất lượng nguồn nước khi thay nước đặc biệt vào mùa vụ nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất, đồng thời tránh dung những loại thuốc có độc tính lân hữu cơ cao.
Khi phát hiện cá bị nhiễm độc cần lập tức thay nước. Sử dụng Atropine Sulfate hay Anisodamine 20 – 25 viên/m3 nước để giải độc. sang ngày thứ hai sau khi thay nước cũng sử dụng nhưng loại thuốc trên nhưng giảm 1/2 liều lượng. Sau đó bổ sung các loại hóa chất làm sạch nguồn nước khác cho đến khi cá ăn trở lại bình thường. Trường hợp nghiêm trọng có thể dùng thêm muối ăn, methylen-green-basic-blue, sinh tố C và một số thuốc thảo dược giải độc khác. Sau khi làm các động tác trên nên bổ sung vào thức ăn Atropine Sulfate, Anisodamine hay thuốc trợ gan để ổn định giải độc cho gan cá.
c. Ngộ độc kim loại nặng
Các kim loại nặng như kẽm, đồng, thủy ngân có thể làm cho cá Chình trúng độc. Nguyên nhân dẫn đến có thể do sử dụng ống dẫn nước mạ kẽm bị sét gỉ tan vào nước. Thủy ngân và đồng chủ yếu do sử dụng hóa chất trong quá trình nuôi có thành phần các chất này vượt quá liều cho phép.
Triệu chứng nhiễm độc kim loại nặng là cá hoạt động bất thường, bơi lội cấp tốc nhát gừng, mất phương hướng, đầu luôn nhô khỏi mặt nước. Màu sắc thân cá trở nên xẫm, mang đỏ thẫm. nhìn qua kính hiển vi thấy màu máu ở mang cũng thẫm. Cá bệnh ra khỏi nước có tình trạng co giật, cơ toàn thân bị co cứng. Cá bơi lội yếu ớt, bị cuốn theo dòng nước đến cửa tháo nước. Cá chìm dưới đáy bể có dạng như chuột rút, vây hậu môn xung huyết. Cá bệnh bỏ ăn, gan mầu bạc, mật xưng to, lách xưng to.
Trường hợp trúng độc do nguồn nước từ bên ngoài chủ yếu sảy ra đối vói cá Chình cỡ nhỏ, nhạy cảm đối với kim loại nặng. Nếu thể tích nước nhỏ nồng độ kim loại nặng sẽ cao do đó tình trạng sẽ nghiêm trọng. Trường hợp sử dụng thuốc quá liều đẫn đến ngộ độc cho cá vẫn thường sảy ra. hệ quả của tình trạng này làm cho cá chết nhiều, hoặc ít ra cũng ảnh hưởng tới tính ăn và sức sinh trưởng của cá.
Để tránh ngộ độc kim loại nặng không nên sử dụng ống nước mạ kẽm. sử dụng hóa chất phải tuân thủ theo hướng dẫn, đặc biệt cẩn thận khi sử dụng đối với cá cỡ nhỏ.
Khi chắc chắn cá bị trúng độc kim loại nặng nên lập tức thay nước. Sau khi thay nước dùng muối natri của EDTA để khử kim loại nặng. Đồng thời tắm cho cá bằng nước muối 4 – 5‰ , sau 18 – 20 giờ thay nước cho thêm một ít thuốc kháng sinh aureomicine 2 – 3 ppm trong vòng 2 – 3 ngày, cá sẽ hồi phục nhanh chóng.
3.4.6. Cách phòng và ứng phó với bệnh:
① Tăng cường biện pháp khống chế ký sinh trùng: Định kỳ kiểm tra cá xác định tỷ lệ cảm nhiễm ký sinh trùng. Nếu tỷ lệ cảm nhiễm cao phải xử lý ngay. Về mùa mưa chất lượng nguồn nước có nhiều thay đổi cần tăng cường kiểm tra. Khi dùng thuốc diệt ký sinh trùng cần nghiêm chỉnh tuân thủ chất lượng và liều sử dụng tránh làm cho cá bị sốc do quá liều. Thông thường sau khi dùng thuốc lần thứ nhất độ 1 tuần phải lặp lại để tiêu diệt nốt ấu trùng ký sinh trùng mới nở hoặc ở thể tiềm sinh tái hiện.
② Mùa đông nên giữ nhiệt độ nước ổn định. Có thể che bằng mái nilon để giúp nâng nhiệt, đồng thời giảm mật độ thả nuôi, ít thay nước để giữ nhiệt. Tránh làm xây xát làm cho nấm và mầm bệnh xâm nhập. Nếu có điều kiện thì hàng tuần nâng nhiệt có thể hạn chế nấm và các bệnh ngoài da phát triển.
③ Nghiêm túc kiểm tra chất lượng thức ăn. Kịp thời điều chỉnh công thức pha trộn thức ăn khi nguyên liệu thay đổi để đảm bảo thành phần chất dinh dưỡng và vệ sinh đề phòng bệnh đường ruột phát sinh.
④ Cố gắng sử dụng các chế phẩm sinh học để khống chế chất lượng nước và môi trường ao nuôi. Sử dụng men tiêu hóa làm cho thức ăn dễ tiêu và tránh bệnh viêm ruột. Sử dụng các chế phẩm sinh học làm tăng sức đề kháng bệnh của cá.
Những điểm cần chú ý khi sử dụng thuốc cho cá Chình:
- Phải xác định chính xác nguyên nhân bệnh trước khi dùng thuốc;
- Liều lượng phải chính xác, cách sử dụng phải theo hướng dẫn;
- Phải có nhật ký ghi Chép lịch sử dụng thuốc.
- Không được sử dụng thuốc đã bị cấm;
Nguồn: TTKNQG
http://dl.dropbox.com/u/10371220/nhanonglamgiau.com/Media/thuysan/ca-chinh.jpg
Cá chình có giá trị rất cao trên thị trường
Cá chình là loài cá rộng nhiệt (từ 1 – 38 độ C), nhưng trên 12 độ C cá mới bắt mồi. Nhiệt độ phù hợp cho sinh trưởng là 13 - 30 độ C, thích hợp nhất là 25 - 27 độ C.
1. Ao nuôi
Diện tích trung bình 800 – 1.200 m2, mức nước trung bình 1,0 – 1,2 m. Bờ ao phải cao hơn mặt nước cao nhất trong ao ít nhất là 60cm. Ao không rò rỉ, nước trong sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa. Ðáy ao là cát hoặc cát bùn.
2. Mật độ thả:
Chỉ thả giống sau khi tẩy dọn ao kỹ. Thời điểm thả từ trung tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 4, khi nhiệt độ nước > 130C. Mật độ thả tùy thuộc vào điều kiện ao nuôi, phương thức nuôi và kích thước cá giống.
Nếu muốn đạt năng suất 15 tấn/ha, thả 12-15 con/m2 (cỡ 20g/con) hoặc 9-12 con/m2 (cỡ 50g/con). Nếu muốn đạt năng suất 100 tấn/ha, thả 300-350 con/m2.
3. Quản lý ao nuôi:
3.1. Thức ăn và cho ăn
Có thể sử dụng 2 loại thức ăn là tươi và thức ăn công nghiệp. Cho ăn theo nguyên tắc 4 định: định chất, định lượng, định thời gian, định địa điểm.
http://dl.dropbox.com/u/10371220/nhanonglamgiau.com/Media/thuysan/ong-tru-an-cho-ca.jpg
Thả các ống để tạo môi trường sống tốt cho cá
+ Định chất: Thức ăn có độ đạm . Nếu dùng thức ăn tươi, cần phải tươi, rửa sạch, sát trùng kỹ sau đó cắt nhỏ mới đem cho ăn. Thức ăn nuôi cá Chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 - 75%, tinh bột 25 - 30% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn tươi sống là cá, trai, hến. Trước khi cho ăn, cần trần cho thịt cá gần chín sau đó dùng dây thép xâu xuyên lại treo trong ao. Cũng có thể bỏ cá vào trong lồng lưới sắt. Nếu cho ăn trai hến thì nên thái thành miếng nhỏ cho ăn.
Thức ăn tổng hợp nên lấy thức ăn động vật làm chính, thí dụ như bột cá, nhộng tằm. Cá Chình không ăn thức ăn chìm xuống dưới đáy bị ô nhiễm, do đó thức ăn tổng hợp không chìm, không bị rữa mới tốt. Nguyên liệu phụ có thể là khô dầu, các chất khoáng, vitamine, bột máu, men v.v... Để cho thức ăn tổng hợp lâu tan trong nước có thể dùng bột củ đậu, khoai lang đánh nhuyễn trộn với thức ăn đã nghiền sẵn.
Bổ sung dưỡng chất:
Thời gian tiêu hóa hết thức ăn của cá Chình là 6 giờ. Thông thường người ta phải trộn thêm vào thức ăn cá Chình một ít men bia, men tiêu hóa đường, elisa của khuẩn đơn bào và vi khuẩn sống trong ruột v.v…
• Men bia: là hỗn hợp các nấm men và bã bia sau khi đã sấy khô. Men bia chứa 40–50% protein thô, 1 lượng lớn vitamine nhóm B và kích tố sinh trưởng chưa biết tên. Có thể phối hợp với tỷ lệ 2 – 3%.
• Men đường mật: Chứa nhiều sinh tố nhóm B, thu được bằng cách phun trong chân không ở nhiệt độ thấp. Có mùi rất thơm, làm tăng tính ăn của cá Chình.
• Elisa của khuẩn đơn bào: thu được trong quá trình lên men đường củ cải, có vị thơm ngọt của men, cho cảm giác ngon, có nhiều các protein, chất khoáng, vitamine và nhiều chất kich thích sinh trưởng chưa biết tên. Chất này dễ tiêu hóa, cá Chình thích ăn. Hàm lượng protein thô trên 65%, chất béo thô trên 4,5%. Tỷ lệ pha trộn vào thức ăn khoảng 1 – 2%.
• Hỗn hợp các vi khuẩn sống bao gồm các chủng Lactobacillus.sp, Pediococcus acidilatici cùng với các chất nuôi cấy. Mỗi gam hỗn hợp này có khoảng trên 120.000 vi khuẩn sống. Nó có tác dụng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng ở phần ruột non và gia tăng nhu động phần ruột già rút ngắn thời gian tiêu hóa thức ăn. Trong ruột cá những vi sinh vật này sẽ cạnh tranh với các vi sinh vật có hại về mặt không gian và chất dinh dưỡng làm cho chúng không phát triển được thậm chí bị tiêu diệt. Đặc biệt là loài Pediococcus acidilatici có tính kháng cự khá mạnh, sức ức chế vi sinh tạp có thể mạnh gấp 10 lần vi khuẩn Lactobacillus.
• Các chất bổ gan, mật:
Để tăng cường chức năng tiêu hóa, khả năng chịu đựng điều kiện chất lượng nước kém do nuôi với mật độ cao hoặc lạm dụng sử dụng hóa chất cần thiết phải bổ sung vào thức ăn một lượng thuốc bắc, axit mật (bile acid) và những chất bổ gan mật khác.
+ Sài hồ (Bupleurum chinense) có tính đắng, hơi hàn, có chứa nhiều steroidal saponins, các loại axit béo thăng hoa, có tác dụng kháng virus, diệt ký sinh trùng và giữ cho gan khỏi bị tổn thương.
+ Bản lam căn (Radix Isatidis) tên tiếng Anh là Indigowoad Root có vị đắng, tính hàn. Thành phần chủ yếu gồm có Indican có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Mỗi kg thức ăn bổ sung độ 10 – 15g thuốc này.
+ Axit mật (Bile acid): có thể xúc tiến hấp thụ mỡ, vitamine, cholesterol. Giải các chất độc trong thức ăn có nhiều mỡ để lâu ngày. Mỗi tấn thức ăn bổ sung khoảng 100g.
+ Định địa điểm: phải cố định vị trí đặt sàng cho ăn. Sàng cho ăn là khung hình vuông kích cỡ 90 x 50 cm căng lưới nilon, mắt lưới to nhỏ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Nên đặt sàng ăn ở chỗ tối, kín gió.
+ Định lượng: Thức ăn tươi mỗi ngày cho ăn 20 – 30% tổng khối lượng cá trong ao; thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp cho ăn 3 – 4% tổng khối lượng cá trong ao. Khi nhiệt độ thấp hoặc quá nóng vào mùa hè (trên 30 độ C) nên giảm bớt khẩu phần. Yêu cầu thức ăn thả xuống sau 20 phút phải ăn hết.
+ Định thời gian: cho ăn 1 lần vào lúc 9 giờ sáng.
5 phút sau khi trộn đều thức ăn với dầu, nước, cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được.
Sàn cho ăn nên đặt ở vị trí giữa hoặc gần đáy, nhưng cũng có thể để sát tầng mặt để tiện quan sát hoạt động bắt mồi của cá. Bên trên sàn cho ăn nên che ánh nắng mặt trời. Cho ăn vào lúc 8 – 9 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.
Đề phòng cá Chình bỏ ăn, có thể dùng các phương pháp sau:
• Phải che nơi cho ăn.
• Cần tăng thêm điểm cho ăn để số cá thể tản mát vẫn có thể tìm được thức ăn.
• Có thể đưa thức ăn vào lồng có kích cỡ mắt lưới khác nhau để cá to không cạnh tranh thức ăn với cá nhỏ.
• Nên có biện pháp phòng bệnh sớm đối với các loại bệnh như: bệnh đốm trắng, trùng bánh xe, sán lá Dactylogyrus v.v…Nếu những loài này ký sinh sẽ làm cho chúng yếu dễ tạo điều kiện con khác ăn thịt.
• Trong cùng một ao nên thả cá giống cùng cỡ, cá nhỏ rất dễ bị cá lớn truy đuổi, suốt ngày trốn tránh, không kiếm được thức ăn. Nên phân loại cá hàng tháng.
3.2. Lọc phân đàn
Định kỳ phân cỡ cá 1 tháng/lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn. Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 - 2 ngày, lùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, không dùng tay bắt cá.
3.3. Quản lý chất lượng nước:
Ao nuôi năng suất 15 tấn/ha cần lắp bộ sục khí 1,5 – 2,0 kw cho 1000 m2. Căn cứ vào thời tiết cụ thể mà mỗi ngày mở máy 3 – 4 lần giúp cho ôxy phân phối đều trong các tầng nước. Trước khi cho cá ăn, nên mở sục khí đề phòng thiếu ôxy cục bộ do cá tập trung ăn tại một chỗ.
Nếu có điều kiện thì nuôi bằng nước chảy. Nếu nuôi trong ao nước tĩnh, cần thay 1/10 lượng nước trong ao khi nhiệt độ cao. Nên thay nước vào lúc trời mát. Khi có mưa to hoặc nước lũ, cần ngừng cho ăn, không thay nước. Trường hợp ao bị nước lũ tràn vào, nên dùng thuốc tím 1,5 ppm hoặc vôi sống 15-20 ppm để ổn định chất lượng nước. Không nên sử dụng nước lũ để thay nước ao.
3.4. Bệnh thường gặp và cách phòng trị:
+ Khống chế tần số cho ăn: Mùa hè cá ăn mạnh nên cũng dễ cho ăn thừa thức ăn. Một khi ăn quá nhiều gan của cá phải làm việc nhiều khiến cho khả năng kháng bệnh giảm, nhất là về mùa hè cá dễ bị mắc các chứng viêm ruột và nhiều chứng bệnh khác vì vậy khẩu phần về mùa hè nên giảm chỉ còn 70-80% so với ngày thường.
+ Sử dụng thuốc phòng trừ dịch bệnh về mua hè cần phải chú ý vì tác dụng của thuốc phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ. Thí dụ thuốc tẩy trùng có gốc clo mỗi khi nhiệt độ nước tăng 10 độ C thì tác dụng của thuốc tăng lên gấp đôi. Vì vậy về mùa hè lượng thuốc sử dụng phải giảm bằng 2/3 hay ½ so với thông thường.
+ Mùa này sử dụng đông nam dược là chủ yếu. Hoạt tính của các loại thuốc này không phụ thuộc vào nhiệt độ, không để lại dư lượng trong sản phẩm. Tiện đây xin giới thiệu 2 bài thuốc đông nam dược như sau:
Phòng trị bệnh viêm ruột: hoàng liên 2 g; hoa kim ngân 5 g; rễ bản lan 5 g; cỏ ngư tinh 5 g; rau rền răng ngựa 5 g; cỏ quỷ châm 5 g; sơn trà dại 3 g; đun lấy nước trộn với mỗi kg thức ăn cho ăn trong 7 ngày.
Phòng trị bệnh nát mang: hoàng liên, đại hoàng, xuyên tâm liên, bản lan căn, ngũ bội tử mỗi loại 5 ppm sắc lấy nước rắc đều khắp ao trong vòng 18 giờ.
3.4.1. Bệnh bại huyết mất nhớt:
Xảy ra trên cá Chình châu Âu (Angilla angilla). Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là thả thưa và lọc cá phân đàn kịp thời. ngoài ra phải khống chế chế độ cho ăn. Không cho ăn quá nhiều. Phải định kỳ khử trùng và điều chỉnh chất nước loại trừ NH3 ra khỏi hồ nuôi. Kịp thời lọc cá bênh ra khỏi hồ nuôi, diệt trừ ký sinh trùng. Khi chữa bênh đầu tiên nên loại trừ ký sinh trùng, khi bệnh phát triển mạnh mới nên sử dụng thuốc kháng khuẩn mới có thể khống chế bệnh tình và giảm tổn thất do cá chết.
3.4.2. Bệnh nát ruột:
Xảy ra ở cá Chình Nhật bản (A. japonica): đã phân lập được 2 loại vi khuẩn là Vibrio gây thương tích và Vibrio cá Chình nhưng chưa rõ tác nhân gây bệnh. Bệnh này thường xảy ra ở những ao nuôi không ngọt hoá hoàn toàn khi nhiệt độ nước xuống dưới 20 độ C, tức là vào khoảng từ tháng 12 đến tháng 4. Khi nhiệt độ nước cao hơn 23 độC, bệnh không xảy ra. Tỷ lệ tử vong của bệnh này khoảng 0,1%- 0,5%. Biểu hiện của bệnh là tia vây xuất huyết màu đỏ, hậu môn sưng đỏ, màu sắc vùng thân ngực bạc sưng lên hoặc rữa nát. Do tốc độ lây lan nhanh làm cho tỷ lệ tử vong cao. Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là giữ cho nước hồ sạch sẽ, định kỳ khử trùng. Khi cá bị bệnh có thể dùng chất khử trùng chứa clo rắc khắp ao. Dùng Oxytetracycline cùng với bột tam hoàng và ngũ bội tử tắm cho cá bị bệnh 36-48 giờ. Tuy nhiên cách trị tốt nhất là nâng nhiệt nước ao lên 23-25 độ C trong vòng 10 ngày bệnh sẽ hết.
3.4.3. Bệnh sán lá:
Đây là ký sinh trùng ký sinh chủ yếu ở mang cá Chình. Ký sinh trùng không trực tiếp gây chết cá nhưng ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi. Nếu số lượng ký sinh trùng nhiều sẽ làm cho mang bị thối rữa dẫn đến chứng bại huyết hoặc mốc nước.
Thông thường do sử dụng thuốc diệt trùng không đúng cách làm cho cá Chình châu Âu bơi lội cấp tốc dẫn đến cá chết do chứng mất nhớt, bại huyết .
Phương pháp phòng bệnh chủ yếu là tẩy trùng định kỳ. Khi sử dụng phải dùng đúng nồng độ, kết hợp nhiều loại thuốc tẩy cùng một lúc để đề phòng hiện tượng kháng thuốc. Sau khi tẩy trùng phải dùng ngay thuốc giải độc để khỏi ảnh hưởng sức khoẻ cá.
3.4.4. Bệnh trùng quả dưa:
Bệnh này còn gọi là bệnh đốm trắng hiện chưa tìm được loại thuốc hữu hiệu nào thay thế loại thuốc đã bị cấmmà chỉ dùng thuốc đông nam dược kết hợp với hợp chất I-ôt hoá trị cao (5+) 35-60 ml/m3 và muối ăn tắm trong thời gian dài để khống chế. Thay nước 1 lần/ngày, làm liên tục như vậy 3-5 ngày.
3.4.5. Một số bệnh do trúng độc:
a/ Trúng độc do đạm amôn:
Nguyên nghân: do nồng độ đạm amôn và nitrit quá cao dẫn đến trúng độc cấp tính hoặc mãn tính.
Cá bị trúng độc phân tán gắp thức ăn rồi lại nhả ra, bơi lội yếu ớt. Trường hợp nghiêm trọng cá ở tư thế treo thẳng đứng đuổi không chạy. Khi mổ cá phát hiện nội tạng như mật gan, lá lách đều xưng tấy.
Bệnh này thường xảy ra khi nuôi mật độ cao vào mùa nóng, hiện tượng trúng độc mang tính cấp. Mùa đông cũng có thể xảy ra do tiết kiệm thay nước, thả với mật độ cao hiện tượng trúng độc sảy ra từ từ. Ở những nơi có nguồn nước tốt, thay nước được thường xuyên ít gặp trường hợp này.
Trúng độc cấp tính dẫn đến cá chết hàng loạt, trúng độc mãn tính cá chết ít và từ từ nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính ăn và tốc độ lớn cả đàn cá.
Đề phòng bệnh này nên thay nước thường xuyên, giảm mật độ nuôi đến độ thích hợp. Ao nuôi 2 – 3 năm vớt bùn một lần. Mùa hè nhiệt độ cao nên giảm lư\ợng thức ăn.
Khi cá bị bệnh có thể bón vôi với liều lượng 20 ppm, mỗi ngày 1 lần liên tục trong 3 ngày. Rải thuốc tím khắp ao với liều lượng 2 – 3 ppm liên tục trong 3 ngày. Cũng có thể dùng methylengreen-basic-blue 1,5 – 2,0 ppm liên tục trong 2 – 3 ngày hoặc sử dụng chế phẩm sinh học để loại trừ đạm amôn và đạm nitrit.
b/ Trúng độc do lân hữu cơ: Nguyên nhân của sự trúng độc này là do sử dụng quá nhiều thuốc sát trùng có chứa lân hữu cơ hoặc do thuốc trừ sâu dùng trong nông nghiệp vào trong ao qua đường nguồn nước cấp.
Triệu chứng trúng độc nếu nhẹ thấy mầu cá biến thành mầu trắng, ăn bình thường. Nhưng nếu nặng thì số lượng cá trắng thân tăng, sức ăn giảm bớt. nếu vớt cả chuyển sang nơi có chất nước bình thường thì những cá thể này chuyển sang màu bình thường sau 2 – 3 giờ.
Trường hợp trúng độc nghiêm trọng hơn thì đầu cá quay xuống dưới hoặc bơi lùi lại phía sau. Cá biểu hiện bơi lội yếu ớt bị động trôi theo dòng nước tập trung đến cống tháo nước. Thân cá mất nhớt, có thể lấy tay vớt được cá. Khi vớt cá trên tay cá có biểu hiện cơ co rút. Cá biệt có con nhô đầu lên khỏi mặt nước há mồm, sau đó chìm xuống đáy hồ chết.
Cá chết thân cứng, mồm há, mang xung huyết nặng. Giải phẫu cá chết thấy gan có mầu vàng, mật xưng to, ruột xuất huyết. Trường hợp trúng độc này thường sảy ra vào các tháng 7 – 8 lúc nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất. Biểu hiện nhiễm độc rõ nhất đối với cá cỡ nhỏ dần đàn đến cá lớn.
Bệnh này loài cá Chình nào cũng mắc. Tỷ lệ chết và tổn hại kinh tế rất cao. Muốn tránh hiện tượng này cần lưu ý đến chất lượng nguồn nước khi thay nước đặc biệt vào mùa vụ nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất, đồng thời tránh dung những loại thuốc có độc tính lân hữu cơ cao.
Khi phát hiện cá bị nhiễm độc cần lập tức thay nước. Sử dụng Atropine Sulfate hay Anisodamine 20 – 25 viên/m3 nước để giải độc. sang ngày thứ hai sau khi thay nước cũng sử dụng nhưng loại thuốc trên nhưng giảm 1/2 liều lượng. Sau đó bổ sung các loại hóa chất làm sạch nguồn nước khác cho đến khi cá ăn trở lại bình thường. Trường hợp nghiêm trọng có thể dùng thêm muối ăn, methylen-green-basic-blue, sinh tố C và một số thuốc thảo dược giải độc khác. Sau khi làm các động tác trên nên bổ sung vào thức ăn Atropine Sulfate, Anisodamine hay thuốc trợ gan để ổn định giải độc cho gan cá.
c. Ngộ độc kim loại nặng
Các kim loại nặng như kẽm, đồng, thủy ngân có thể làm cho cá Chình trúng độc. Nguyên nhân dẫn đến có thể do sử dụng ống dẫn nước mạ kẽm bị sét gỉ tan vào nước. Thủy ngân và đồng chủ yếu do sử dụng hóa chất trong quá trình nuôi có thành phần các chất này vượt quá liều cho phép.
Triệu chứng nhiễm độc kim loại nặng là cá hoạt động bất thường, bơi lội cấp tốc nhát gừng, mất phương hướng, đầu luôn nhô khỏi mặt nước. Màu sắc thân cá trở nên xẫm, mang đỏ thẫm. nhìn qua kính hiển vi thấy màu máu ở mang cũng thẫm. Cá bệnh ra khỏi nước có tình trạng co giật, cơ toàn thân bị co cứng. Cá bơi lội yếu ớt, bị cuốn theo dòng nước đến cửa tháo nước. Cá chìm dưới đáy bể có dạng như chuột rút, vây hậu môn xung huyết. Cá bệnh bỏ ăn, gan mầu bạc, mật xưng to, lách xưng to.
Trường hợp trúng độc do nguồn nước từ bên ngoài chủ yếu sảy ra đối vói cá Chình cỡ nhỏ, nhạy cảm đối với kim loại nặng. Nếu thể tích nước nhỏ nồng độ kim loại nặng sẽ cao do đó tình trạng sẽ nghiêm trọng. Trường hợp sử dụng thuốc quá liều đẫn đến ngộ độc cho cá vẫn thường sảy ra. hệ quả của tình trạng này làm cho cá chết nhiều, hoặc ít ra cũng ảnh hưởng tới tính ăn và sức sinh trưởng của cá.
Để tránh ngộ độc kim loại nặng không nên sử dụng ống nước mạ kẽm. sử dụng hóa chất phải tuân thủ theo hướng dẫn, đặc biệt cẩn thận khi sử dụng đối với cá cỡ nhỏ.
Khi chắc chắn cá bị trúng độc kim loại nặng nên lập tức thay nước. Sau khi thay nước dùng muối natri của EDTA để khử kim loại nặng. Đồng thời tắm cho cá bằng nước muối 4 – 5‰ , sau 18 – 20 giờ thay nước cho thêm một ít thuốc kháng sinh aureomicine 2 – 3 ppm trong vòng 2 – 3 ngày, cá sẽ hồi phục nhanh chóng.
3.4.6. Cách phòng và ứng phó với bệnh:
① Tăng cường biện pháp khống chế ký sinh trùng: Định kỳ kiểm tra cá xác định tỷ lệ cảm nhiễm ký sinh trùng. Nếu tỷ lệ cảm nhiễm cao phải xử lý ngay. Về mùa mưa chất lượng nguồn nước có nhiều thay đổi cần tăng cường kiểm tra. Khi dùng thuốc diệt ký sinh trùng cần nghiêm chỉnh tuân thủ chất lượng và liều sử dụng tránh làm cho cá bị sốc do quá liều. Thông thường sau khi dùng thuốc lần thứ nhất độ 1 tuần phải lặp lại để tiêu diệt nốt ấu trùng ký sinh trùng mới nở hoặc ở thể tiềm sinh tái hiện.
② Mùa đông nên giữ nhiệt độ nước ổn định. Có thể che bằng mái nilon để giúp nâng nhiệt, đồng thời giảm mật độ thả nuôi, ít thay nước để giữ nhiệt. Tránh làm xây xát làm cho nấm và mầm bệnh xâm nhập. Nếu có điều kiện thì hàng tuần nâng nhiệt có thể hạn chế nấm và các bệnh ngoài da phát triển.
③ Nghiêm túc kiểm tra chất lượng thức ăn. Kịp thời điều chỉnh công thức pha trộn thức ăn khi nguyên liệu thay đổi để đảm bảo thành phần chất dinh dưỡng và vệ sinh đề phòng bệnh đường ruột phát sinh.
④ Cố gắng sử dụng các chế phẩm sinh học để khống chế chất lượng nước và môi trường ao nuôi. Sử dụng men tiêu hóa làm cho thức ăn dễ tiêu và tránh bệnh viêm ruột. Sử dụng các chế phẩm sinh học làm tăng sức đề kháng bệnh của cá.
Những điểm cần chú ý khi sử dụng thuốc cho cá Chình:
- Phải xác định chính xác nguyên nhân bệnh trước khi dùng thuốc;
- Liều lượng phải chính xác, cách sử dụng phải theo hướng dẫn;
- Phải có nhật ký ghi Chép lịch sử dụng thuốc.
- Không được sử dụng thuốc đã bị cấm;
Nguồn: TTKNQG