Chợ thông tin Nông Sản Việt Nam

Trở lại   Chợ thông tin Nông Sản Việt Nam > Kiến thức Nông nghiệp - Nông thôn > Trồng trọt
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 11-10-2012, 01:38 PM
minhkhago minhkhago đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 172
Mặc định Các Loại Sâu Bệnh Hại Trên Cây Đậu Tương

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Dòi đục thân, lá, sâu khoang, sâu xanh, sâu đục quả, rầy, rệp, nhện đỏ . . . Phòng trừ: Khi trồng đậu tương, phải căn cứ vào điều kiện cụ thể, kết hợp với dự tính, dự báo để có biện pháp phòng trừ.

1. Rệp đậu

Họ: Aphididae; Bộ Homopera

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC

Gọi là rệp đậu vì đây là lọai rầy mềm không cánh, thường thấy bu thành đám quanh đọt hoặc bông và trái non để chích hút làm cho đọt bị quắn, bông bị rụng và trái bị lép. Có 2 lòai phổ biến và khác nhau về cây ký chủ:

- Aphis craccivora Koch: Rất phổ biến, tấn công đọt và trái non của hầu hết các lọai đậu - đặc biệt là đậu xanh, đậu đủa và cô-ve. Rệp đậu còn non có màu tím, khi trưởng thành có màu đen bóng, cũng không có cánh và đẻ thẳng ra con nên mật số có thể gia tăng rất nhanh, gây hại mau chóng. Chỉ khi nào hết thức ăn, mật số quá đông hoặc bị thiên địch tấn công nặng... chúng mới phát sinh dạng thành trùng có cánh để di chuyển đi tìm nguồn thức ăn mới.

- Aphis glycines Matsumura: Cơ thể màu xanh lục vàng, ngực và đầu có màu đen hay xanh lục đậm, bụng màu nhạt, dài từ 1,7 - 2 mm, rộng từ 0,7 - 0,9 mm. Râu màu trắng bẩn nhưng các đốt roi râu màu nâu đen, ngắn hơn cơ thể. Vòi chích hút kéo dài vượt khỏi đốt chậu chân giữa. Ống bụng màu nâu. Dạng không cánh có cơ thể màu vàng xanh đến vàng tươi, 2 mắt đen, râu ngắn hơn 1/2 thân mình và có màu trắng giống như chân, dài từ 1,5 - 2 mm, rộng từ 0,7 đến 1,2 mm. Các đặc điểm khác đều giống như dạng có cánh.

Chúng hút nhựa và thải phân lỏng còn chứa rất nhiều đường nên thường quyến rủ kiến đến ăn và bảo vệ chúng khỏi bị thiên địch tấn công. Điều nguy hiểm là chúng có thể truyền bệnh Khảm Vàng làm cho lá đậu co rúm và cây không ra trái.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Thường không phải phòng trừ gì cả vì chúng có rất nhiều thiên địch như các lòai bọ rùa, kiến sư tử (Chrysopidae, Neuroptera), các lòai dòi thuộc họ Syrphidae (Diptera)... Để ngăn ngừa việc truyền bệnh vi rút thì nên trồng sớm hoặc tìm cách lọai trừ cây bị bệnh.

Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như ACTARA 25WG để phòng trị.

2. Sâu xanh Heliothis armigera Hübner

Họ Ngài Đêm (Noctuidae); Bộ Cánh Vải Lepidopera

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC

Đây cũng là loài sâu đục trái bắp và trái cà chua. Sâu có kích thước khá lớn, màu xanh lục với 2 sọc nâu mờ giữa lưng và 2 sọc trắng lớn chạy dọc 2 bên hông. Sâu thường thấy có chiều dài độ 20-30 mm, ẩn ở mặt dưới lá và ăn lủng lá thành nhiều lổ lớn. Sâu phát triển qua 5 tuổi, lâu 15-20 ngày rồi chui xuống đất để làm nhộng, hoặc trong trái hay lá khô. Bướm hoạt động ban đêm, đeo trứng rời rạc trên lá hoặc trái non và trứng nở sau 3-4 ngày. Bướm dài độ 20 mm, sải cánh rộng 35-40 mm, cánh trước màu vàng nâu với bìa cánh có vệt nâu đậm và 1 đốm đen ở giữa cánh, cánh sau màu trắng nhưng lại có 1 vệt đen lớn ở bìa cánh. Bướm sống lâu và đẻ 300-500 trứng, rải rác trên lá non hoặc bông, trái non.

Thời gian phát triển và ăn phá của sâu lâu độ 2-3 tuần lể, và chu kỳ sinh trưởng độ 1,5-2 tháng.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Thường xuyên quan sát ruộng đậu, nhất là từ sau khi trồng đến 1 tháng tuổi lá chưa giao nhau, để phát hiện ổ trứng và kịp thời ngắt bỏ.

Sâu có khả năng kháng thuốc cao nên rất khó trị bằng các lọai thuốc sâu thông thường. Nên bắt sâu bằng tay kết hợp với việc phun thuốc, đặc biệt là lọai gốc cúc tổng hợp (Pyrethroids) vì có biệt tính cao lại mau phân hủy trong đất. Loài sâu này thường hay bị một loại siêu vi khuẩn (vi rút) thuộc nhóm NPV tấn công ở ngoài đồng.

Tránh trồng xen canh với bắp, cà chua, thuốc lá vì đều là cây ký chủ của chúng. Sau mỗi vụ nên xới đất rồi phơi ải một thời gian để diệt nhộng của sâu còn ẩn lại trong đất.

Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như MATCH, CYPERAN để phòng trị.

3. Dòi đục thân đậu

Họ: Agromyziidae; Bộ Diptera

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC

1. Loài Ophiomyia phaseoli Tryon

Có ký chủ gồm nhiều lọai đậu như đậu xanh, đủa, cô-ve, trắng, đen... Loài nầy tấn công khi cây còn rất non, vừa có 2 lá tử diệp đầu tiên, nên dễ làm chết cây con khi có từ 2 con dòi trở lên trong một cây.

Thành trùng là loại ruồi rất nhỏ, màu đen, thường thấy đậu trên lá non vào buổi sáng. Con cái dùng ống nhọn ở cuối bụng để đẻ từng trứng vào trong mỗi lỗ đục trên mặt lá. Trứng nở sau độ 2 ngày. Ấu trùng đục thành đường hầm ngoằn ngoèo trên mặt lá rồi đục qua cuống để vào thân và đục xuống gốc để làm nhộng trong phần vỏ của gốc cây con. Ấu trùng có 3 tuổi và thời gian phát triển làm hại cây đậu lâu độ 7-10 ngày. Nhộng có hình trụ, màu nâu bóng và kéo dài độ 7 ngày.

2. Melanagromyza sojae Zehntner

Chỉ tấn công cây đậu nành mà thôi. Loài này cũng đẻ trứng trên lá non và ấu trùng nở ra cũng đục ngoằn ngoèo trên phiến lá rồi mới qua cuống để đục vào thân cây. Tuy nhiên, ở trong thân chúng đục ở phần rổng của trụ trung tâm nên không làm chết cây con mà thường chỉ gây chết nhánh non và cây đậu bị chậm phát triển. Nhộng nằm trong phần lõi thân cây đậu nành.

Chu kỳ sinh trưởng cùng tương tự như trên.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Cách phòng trị thông thường là rải thuốc trừ sâu dạng hạt như BASUDIN 10H vào lúc tỉa đậu, chung với phân bón và tro trấu để bảo vệ cây con trong vòng 2 tuần đầu là đủ. Khi cần thiết, có thể phun BASUDIN 50EC để tiêu diệt.

4. Sâu đục trái đậu nành Etiella zinkenella Treitschke

Họ: Phycitidae; Bộ Lepidopera

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC

Loài này chỉ thấy tấn công đậu nành mà không thấy trên các lọai đậu khác. Bướm nhỏ, sải cánh độ 15 mm, màu vàng nâu nên rất tiệp với màu lá đậu khô, hoặc thân và trái đậu sắp chín. Bướm đẻ trứng vào ban đêm, rải rác trên vỏ trái đậu non vừa có hạt phát triển.

Sâu nở ra đục ngay vào trong trái và ở luôn bên trong ăn dần từ hạt này đến hạt khác. Do đó, thường ít thấy trái có lổ đục nhưng khi tách trái ra thì lại thấy có sâu lớn ở bên trong. Sâu có thể ăn cả trái hay chỉ làm mẻ hạt, giảm phẩm chất hạt đậu. Vòng đời lâu độ 1 tháng và giai đọan sâu ăn hạt kéo dài độ 2 tuần. Khi ăn hết trái này sâu thường chui ra ngoài để đục sang trái khác nên loại đậu có trái chùm đóng khít dễ bị thiệt hại nhiều hơn.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

1. Nên xuống giống đồng lọat hoặc trồng các giống sớm có chu ky sinh trưởng ngắn để thu hoạch trước cao điểm phát triển của sâu.

2. Có thể kết hợp trộn thuốc vi sinh BT với thuốc hóa học có bả độc mau phân hủy. Đối với đậu nành rau thì nên theo dõi mật số bướm mới xâm nhập vào ruộng để có thể phun thuốc sớm diệt bướm hoặc sâu non còn cạp ăn ngoài vỏ trái non trước khi đục vào trong trái. Nên thật cẩn thận trong việc chọn lọai thuốc và quyết định có nên phun hay không vì đây cũng là lọai đậu ăn trái tươi.

3. Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như MATCH 050EC hoặc PERAN 50EC để phòng trị
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
  #2  
Cũ 11-10-2012, 01:38 PM
vanmai.co vanmai.co đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 190
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

5. Bệnh rỉ

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Đây là một bệnh rất phổ biến ở các vùng trồng đậu nành, gây hại với các mức độ khác nhau, trên hầu hết các giống đang canh tác. Bệnh có thể xuất hiện trên tất cả các mùa vụ tại Đồng bằng sông Cửu long, nhưng bệnh thường phát triển mạnh vào vụ Hè Thu, khi có mưa nhiều, lớp không khí ở mặt đất có độ ẩm cao. Bệnh thường nặng ở các ruộng đậu nành xen canh với bắp.

Bệnh có thể tấn công từ khi cây có hai lá kép cho đến lúc trái chín. Bệnh phát triển chậm vào giai đoạn từ cây con đến trước khi ra hoa, nhưng sau đó bệnh sẽ phát triển nhanh và nặng hơn. Lá còn non có sức chống chịu bệnh cao hơn các lá già. Điều này có thể do ở lá non có chứa nhiều đạm tổng hợp và đạm protein hơn ở lá già.

Lá, thân và trái đều bị nhiễm bệnh, nhưng bệnh xuất hiện chủ yếu trên các lá già.

Trên lá, vết bệnh mới xuất hiện là những đốm tròn nhỏ, có nhiều màu sắc khác nhau: xanh nhạt, nâu vàng hoặc nâu xám, lấm tấm như đầu kim, rải rác đều trên mặt lá. Sau đó vết bệnh phát triển rộng ra khoảng 1mm, có dạng tròn hoặc dạng có góc cạnh hoặc bất dạng, có màu nâu vàng hoặc nâu đỏ như màu rỉ sắt hoặc nâu đen. Đặc tính về màu sắc và kích thước vết bệnh thường thay đổi khác nhau, chủ yếu là do khả năng gây bệnh của nấm, giống đậu nành và điều kiện thời tiết. Triệu chứng bệnh đặc biệt là vết bệnh nhô lên ở hai mặt lá, thường nhô cao ở mặt dưới lá. Đây là do đặc tính thích nghi môi trường của nấm bệnh: ở mặt dưới của lá có ẩm độ và nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển. Ngoài ra, mưa và ánh nắng gay gắt cũng không ảnh hưởng trực tiếp như ở mặt trên của lá. Bệnh nặng, các vết bệnh liên kết lại với nhau, làm cho lá bị khô cháy từng mãng hoặc cả lá, lá rụng nhiều, cây mất dần khả năng quang hợp. Nếu bệnh nặng vào giai đoạn cây chưa ra hoa, kết trái, sẽ làm thất thu hoàn toàn.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Do nấm Phakopsora pachyrhizi Sydow; Phakopsora sojae Sawada.

Nấm gây bệnh thuộc lớp nấm Đãm (Basidiomycetes). Trên đồng ruộng, nấm gây bệnh thường ở dạng sinh sản vô tính, thường gặp nhất là các hạ bào tử (uredospore), chúng tập hợp lại thành các hạ bào quần (uredosores) nhô lên ở hai mặt lá.

Hạ bào quần có kích thước 197- 258 x 97 - 108 micron, được thành lập dưới lớp biểu bì lá, sau đó nhô lên khỏi bề mặt lá.

Hạ bào tử có kích thước 4,7 - 13 x 2,1 - 5,6 micron, gồm một tế bào không màu hoặc vàng nhạt, dạng bầu dục không đều (có đầu trên tròn, hơi phình to, đầu dưới thu nhỏ lại), bên trong hiện rõ 1 - 2 hạt dầu.

Khi gặp trời rét, vết bệnh có màu nâu đen hoặc đen do ổ nấm được thành lập là những đông bào quần (teleutosores, teliosori), chứa các đông bào tử (teleutospores, teliospores). Đông bào tử có kích thước 12 - 34 x 5 - 13 micron, gồm một tế bào màu nâu, dạng bầu dục dẹp (ellip) hoặc góc cạnh.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

* Giống: Nên trồng giống kháng hoặc ít nhiễm bệnh. Giống Tainung 63 kháng được bệnh này. Kết quả trắc nghiệm tại Trường Đại Học Cần Thơ qua hai vụ ĐX 82 - 83 và ĐX 83 - 84 cho thấy các giống/dòng sau đây tỏ ra ít bị nhiễm bệnh: Orba, Dun, DL, C 5 - 20, 1338 mới, MTĐ 22, MTĐ 22 - 1, MTĐ 22 - 3, MTĐ 22 - 4 và MTĐ 120 - 2.

Trong những năm qua, đa số các giống đậu nành được trồng tại Đồng bằng sông Cửu long đều bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, nhờ đặc tính nhiễm trể nên thất thu năng suất không đáng kể. Thực tế nhất, nên chọn giống từ ruộng không bị bệnh hoặc chỉ nhiễm nhẹ. Hạt tốt, đầy đặn cũng là yếu tố giúp cây phát triển tốt, chống chịu được bệnh.

* Thời vụ: giữ vai trò quan trọng trong việc phòng bệnh. Tại Đồng bằng sông Cửu long, không riêng bệnh rỉ mà đối với đa số các bệnh do nấm và vi khuẩn, đậu nành được trồng ở vụ Đông Xuân thường bị nhiễm bệnh nhẹ hơn ở vụ Hè Thu. Nên gieo sạ đúng thời vụ.

* Kỹ thuật canh tác:

- Mật độ gieo sạ: Cần bão đảm mật độ gieo sạ ở từng vùng canh tác, gieo sạ dày sẽ tạo điều kiện vi khí hậu thích hợp cho bệnh phát triển; ngược lại, gieo sạ thưa thì cỏ dại sẽ phát triển mạnh.

- Nước tưới: Áp dụng chế độ nước tưới đầy đủ không để ruộng bị khô hạn hoặc bị úng nước. Bão đảm nguồn nước tưới không chứa mầm bệnh.

- Phân bón: Bón phân đầy đủ và cân đối, không bón quá nhiều phân đạm, tăng cường phân lân và kali cho những ruộng thường xuyên bị nhiễm nặng.

* Vệ sinh đồng ruộng:

- Đất: sửa soạn kỹ, nên phơi đất để diệt bớt nguồn bệnh hoặc khử đất bằng thuốc trừ nấm.

- Sau vụ mùa và trước khi canh tác, nên gom các xác bã cây và cỏ dại để thiêu đốt hoặc chôn sâu, nhất là ở những ruộng đã nhiễm bệnh nặng.

* Khử hạt: nguồn lây lan quan trọng của bệnh này là các hạ bào tử của nấm bệnh bám trên hạt giống, nên việc khử hạt là rất cần thiết để bão vệ cây ở giai đoạn cây còn nhỏ. Có thể khử hạt bằng nước “ba sôi - hai lạnh“ (khoảng 52oC) trong 15 phút, hoặc bằng nước muối 5%, hoặc thuốc khử hạt giống 0,1% - 0,2 %.

* Trị bệnh:

- Cần phát hiện bệnh sớm và sử dụng thuốc kịp thời. Áp dụng thuốc xịt khi có bệnh xuất hiện.

-Loại thuốc: có thể dùng một trong các loại sau: Tilt 250ND, Tilt super 300ND.

- Định kỳ: xịt 2 - 3 lần, cách nhau 10 - 15 ngày, trường hợp bệnh nặng thì xịt định kỳ 7 ngày một lần cho đến khi bệnh ngưng phát triển.

6. Bệnh đốm phấn

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Bệnh còn được gọi là bệnh sương mai, rất phổ biến ở các vùng có khí hậu ẩm. Ở Đồng bằng sông Cửu long, bệnh thường nặng vào vụ Hè Thu và có thể thành dịch khi gặp điều kiện thuận lợi, ngay cả trong vụ Đông Xuân. Điều kiện khí hậu ở nước ta rất thích hợp cho bệnh này phát triển.

Bệnh tấn công chủ yếu trên lá, trái và hạt cũng bị nhiễm khi bệnh nặng. Đầu tiên, mặt trên lá có những đốm nhỏ màu vàng hoặc xanh nhạt, mặt dưới lá có những cụm nấm giống như phấn màu trắng xám. Đây là tập hợp các đính bào đài (conidiophores) và các đính bào tử (conidia) của nấm gây bệnh. Đốm bệnh sẽ chuyển sang màu xám sậm hoặc nâu sậm, lá khô và rụng sớm. Nấm bệnh cũng có khả năng xâm nhập vào lớp vỏ trái rồi vào hạt. Hạt bị phủ bởi một lớp bụi trắng (white crusts) với nhiều nõan bào tử (oospores). Bệnh nặng, trái và hạt không phát triển.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Do nấm Peronospora manshurica (Naumov) Sydow

Đính bào đài không màu và không vách ngăn, mọc thành chùm ở khí khẩu, có kích thước 350 - 880 x 6 - 8 micron, phân nhánh đôi ở đầu (đặc điểm này giúp ta nhận diện nấm được dễ dàng).

Đính bào tử là một tế bào không màu hoặc có màu vàng nhạt, hình cầu hoặc hình trứng, có màng mỏng, kích thước: 15 - 28 x 16 - 22 micron.

Noãn bào tử còn được gọi là bào tử nghỉ (resting spore), được thành lập bên trong mô cây, có vách dày, màu vàng, hình cầu có đường kính 24 - 40 micron. Bề mặt láng với cấu tạo võng lưới. Noãn bào tử có thể tồn tại ở hạt giống, bao phủ bên ngoài hạt giống làm cho lớp vỏ hạt cứng lại.

Trong thời gian cây đang sinh trưởng, nấm lây lan bằng đính bào tử, nấm được lưu tồn qua vụ sau bằng noãn bào tử trong xác bã của cây bệnh và trong hạt giống. Loại nấm này có nhiều dòng sinh lý khác nhau nên việc tuyển chọn giống kháng bệnh gặp nhiều khó khăn.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

- Chọn hạt giống ở những ruộng không bệnh. Sàng sẩy hạt trước khi tồn trữ hoặc trước khi gieo. Dùng giống chống bệnh.

- Chọn thời vụ thích hợp, tăng cường bón thêm phân lân và kali. Áp dụng biện pháp canh tác và vệ sinh đồng ruộng giống như ở bệnh rỉ. Khử hạt giống bằng thuốc hóa học trước khi gieo.

- Phun thuốc gốc lưu huỳnh hoặc Score 250 EC
Trả lời với trích dẫn


  #3  
Cũ 11-10-2012, 01:38 PM
johnhuynh426 johnhuynh426 đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 187
Mặc định

7. Bệnh chấm đỏ lá

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Bệnh còn được gọi là “bệnh vết phồng vi khuẩn“ hay “bệnh đốm ướt“.

Sau bệnh rỉ, đây là bệnh khá phổ biến trên nhiều giống đậu nành. Ở một số nơi chuyên canh đậu nành trên thế giới, như ở tiểu bang lllinois (Mỹ), hầu hết các giống đều bị nhiễm bệnh này. Bệnh thích hợp trong điều kiện khí hậu ấm áp, lan truyền từ năm này sang năm khác bằng lá bị bệnh và cũng có thể từ hạt giống.

Bệnh tấn công cả cây con lẫn cây trưởng thành, nhưng bệnh thường phát triển trầm trọng từ khi ra hoa trở về sau.

Bệnh xảy ra trên lá, thân, cành và trái, chủ yếu là trên lá

- Trên lá: vết bệnh là những đốm nhỏ 1 - 2 mm, có góc cạnh hay bất dạng, màu xanh hơi vàng với tâm màu nâu đỏ. Mô tế bào ở giữa đốm bệnh phồng lên như bị ung thư, có một vòng hơi trũng bao quanh.

Khi bệnh phát triển, trên lá có những mãng vàng hoặc nâu với các đốm nhỏ màu nâu đậm. Sau đó, các mãng này bị thủng rách lổ chổ, do các mụn ở giữa đốm bệnh bị khô và rụng đi. Bệnh nặng, cây rụng hết lá.

Triệu chứng ban đầu trông dễ nhầm lẫn với bệnh rỉ, nhưng được phân biệt nhờ vào kích thước, hình dạng, màu sắc và độ nhô của đốm bệnh: vết bệnh rỉ nhỏ, sắc gọn hơn.

Triệu chứng ở giai đoạn sau của bệnh trông dễ nhầm lẫn với bệnh đốm nhũn lá (bacterial blight). Tuy nhiên, bệnh được phân biệt nhờ vào đặc tính hình thành sớm một vòng nhũn nước quanh đốm bệnh của bệnh đốm nhũn lá và hiện tượng thủng lổ chổ trên lá cũng xuất hiện rất sớm ở bệnh đốm nhũn lá.

- Trên thân và cành có các sọc ngắn màu nâu đỏ.

- Trên trái có vết bệnh hình tròn.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Do vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. phaseoli ( Smith ) Dowson.

Vi khuẩn hoạt động, có 1 - 2 chiên mao ở một cực (đầu), kích thước: 1,4 - 2,3 x 0,5 - 0,9 micron, thuộc gram âm (G-), không tạo bào tử, không có lớp dịch nhờn. Vi khuẩn xâm nhập vào cây qua vết thương hoặc qua khí khẩu (stomata). Vi khuẩn lưu tồn trong xác bả cây bệnh và trong hạt giống.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

- Trồng giống kháng bệnh: các ghi nhận trong và ngoài nước cho thấy có các giống kháng được bệnh này như: Scott, Clark 63, Black eyebrow, Davis, Vân nam, Ô môn 1, Năm Căn 1, Việt khái 3, Hòa khánh 74, MTĐ 9,, MTĐ 10, MTĐ 13 và MTĐ 14.

- Vệ sinh đồng ruộng, cày sâu , trồng thưa vá luân canh.

- Khử hạt.

- Áp dụng thuốc gốc đồng

7. Bệnh cháy nhũn lá

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Bệnh này đã được ghi nhận trên đậu nành trồng ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới. Đầu tiên, bệnh được ghi nhận ở Philippines vào năm 1918; sau đó, ở Ấn Độ, Mã Lai, Mexico, Puerto Rico, miền nam Trung Quốc, Taiwan và Louisiana. Ở Louisiana, bệnh đã làm giảm 35% năng suất. Ngòai đậu nành, nấm bệnh còn tấn công trên các loài đậu khác, như: đậu xanh (Phaseolus vulgarus), đậu lima (P. limemsis), cowpeas (Vigna spp.), clover (Trifolium spp.), đậu nành hoang (Glycine javanica), v.v..., trên lúa và các loài cỏ dại.

Tại Việt nam, bệnh có thể đã xuất hiện từ lâu. Bệnh đã ngày càng phổ biến, góp phần làm giảm năng suất đậu nành trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm đầu của thập kỷ 80. Trong thời gian này, việc phòng trị bệnh chưa được hữu hiệu vì chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Đến vụ hè - thu 1985, bệnh mới được xác định tác nhân gây bệnh và các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh.

Bệnh thường xuất hiện khi đậu bắt đầu ra hoa và sẽ phát triển mạnh sau đó. Bệnh cũng có thể tấn công khi đậu còn nhỏ (hai tuần sau khi gieo). Bệnh xuất hiện càng sớm thì càng làm giảm năng suất. Bệnh phát sinh và lây lan nhanh khi có mưa nhiều (ẩm độ cao), và sẽ ngưng phát triển khi gặp trời nắng khô. Bệnh nặng ở những ruộng đậu trồng ngay sau vụ lúa bị nhiễm bệnh đốm vằn hoặc ở những ruộng đậu được ủ gốc bằng rơm lúa bệnh đốm vằn. Đậu được gieo sạ dày, nhiều cỏ dại, bệnh sẽ dễ dàng phát sinh, lây lan và lưu tồn cho vụ sau.

Trong ruộng đậu có từng lõm nhỏ bị héo úa rồi lụn dần. Lá mới bị nhiễm bệnh sẽ biến màu như bị nhúng vào nước sôi, có những đốm to màu xanh nâu. Sau đó, lá trở nên nhủn nước và rủ xuống, bề mặt lá có nhiều sợi nấm trắng làm cho lá kết dính với các lá khác và với các cành, thân, trái bên dưới, làm cho các bộ phận này bị nhiễm bệnh. Lá dần dần cháy khô. Cành, thân, trái cũng có những vết nâu và cháy khô. Dấu hiệu nổi bật của bệnh này là có sự xuất hiện của các sợi nấm và hạch nấm (sclerotes) trên các bộ phận bị bệnh. Bệnh nặng làm lá, cành, trái rụng sớm, cây sinh trưởng kém.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Do nấm Rhizoctonia solani Kuhn, giai đọan sinh sản hữu tính là Thanatephorus cucumeris thuộc lớp nấm Đãm.

Đây là loại nấm sống trong đất, có khả năng sống cạnh tranh hoại sinh rất mạnh và tạo hạch. Trên lá, thân, cành và trái của các cây bệnh có nhiều sợi nấm trắng hoặc nâu và hạch nấm được hình thành trên đó. Khi mới được thành lập, hạch nấm có màu trắng; sau đó, chuyển dần sang màu nâu hoặc nâu đen. Hạch nấm có hình dạng và kích thước rất thay đổi. Chúng có dạng tròn hoặc bầu dục nhưng mặt bám vào cây thì dẹt, có đường kính: 1 - 4 mm, bề mặt của hạch nấm có nhiều lổ nhỏ như tổ ong, có chất dịch màu nâu vàng đọng lại ở hạch còn non. Các hạch nấm mọc riêng lẻ hoặc kết dính vào nhau thành từng cụm. Hạch nấm được cấu tạo bởi những sợi nấm cuộn vào nhau một cách lỏng lẻo. Sợi nấm có tính phân nhánh vuông góc và sợi nấm con co thắt lại ở điểm kết hợp với sợi nấm mẹ. Sợi nấm có đường kính: 3 - 17 micron, tỉ lệ chiều dài và đường kính sợi nấm là 5:1.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

- Giống: Đa số các giống đều nhiễm bệnh nặng. Một số giống tỏ ra ít nhiễm như: Dun, Hạt to Lâm Đồng, Santa Maria, MTĐ 64, MTĐ 134 - 2, MTĐ 134 - 10, MTĐ 170 - 1 MTĐ 172 - 7, MTĐ 173 - 6, MTĐ 176 và MTĐ 225 - 3. Giống càng ngắn ngày thì bệnh càng trở nên trầm trọng hơn.

- Kỹ thuật canh tác: không nên trồng đậu sau vụ lúa bị nhiễm bệnh đốm vằn và không ủ ruộng đậu bằng rơm lúa bị bệnh này. Không gieo sạ dày, khi gieo nên áp dụng phương pháp gieo xen các hốc giữa các hàng (cây ít bị giáp tán) sẽ hạn chế được sự bộc phát và lây lan của bệnh.

- Thời vụ: vụ đông - xuân, bệnh thường ít xảy ra. Nếu trồng đậu vào vụ xuân - hè, nên gieo sạ sớm, bệnh sẽ ít tác hại đến năng suất.

- Vệ sinh đồng ruộng: áp dụng phương pháp giống như ở bệnh rỉ, đặc biệt chú ý đến việc làm sạch cỏ vì đây cũng là nguồn lưu tồn và lây lan quan trọng đối với bệnh này. Kết quả điều tra hai vụ xuân - hè và hè - thu 85 tại Nông Trại Thực Nghiệm Khu II, trường Đại Học Cần Thơ, cho thấy có 10 loài cỏ dại hiện diện trong ruộng đậu, là ký chủ phu của bệnh này: Cỏ mật (Brachiaria distachya), Cỏ cú (Cyperus rotundus), Cỏ túc hình nhỏ (Digitaria ciliaris), Cỏ lồng vực nước (Echinochloa colona), Cỏ lông công (Echinochloa cruss - galli), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Fimbristylis diphylla Vahl, Cỏ đuôi phụng (Leptochloa chinensis), Cỏ ống (Panicum repens) và Paspalum sp.

-Xử lý với thuốc VALIDAN 5DD, BONANZA 100 DD.

8. Bệnh héo cây con, héo khô

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Bệnh có thể tấn công suốt giai đoạn sinh trưởng của cây, thường gây thiệt hại nặng cho cây con.

Cây con: cổ thân bị úng và teo tóp lại, cây bị ngã ngang nhưng lá vẫn còn xanh tươi, sau đó mới héo lại. Bệnh thường tấn công mạnh vào 5-10 ngày sau khi gieo.

Cây lớn: bệnh xâm nhiễm ở thân, nhất là ở phần gốc thân, làm cho mô vỏ bị thối nâu hoặc nâu đen, viền vùng thối không đều đặn và có màu nâu đỏ, phần bệnh hơi lõm vào, sau đó thân bị nứt ra, lá héo khô rồi rụng dần.

Bệnh được nhận diện dễ dàng nhờ vào dấu hiệu của bệnh, đó là các sợi nấm, hạch nấm của nấm gây bệnh, chúng phát triển ngay trên vết bệnh ở gốc thân, phát triển lan lên thân và vùng đất quanh gốc cây. Rễ bị thối và thường có màu nâu đỏ.

Tuy nhiên, ở ngòai đồng bệnh thường dễ nhầm lẫn với thiệt hại do ruồi đục thân đậu nành (Melanagromyza sojae), có thể phân biệt nhờ vào các dấu hiệu bệnh nêu trên. Bệnh cũng thường xuất hiện cùng lúc với thiệt hại do ruồi đục thân do điều kiện thời tiết nóng và ẩm đều phù hợp cho hai lọai dịch hại này.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Bệnh do nấm Rhizoctonia solani Kuhn, giai đọan sinh sản hữu tính là Thanatephorus cucumeris thuộc lớp nấm Đãm. Sợi nấm màu trắng, hạch nấm màu trắng lúc mới thành lập, sau đó có màu nâu vàng hoặc nâu đen, hạch nấm hình cầu có bề mặt trơn láng, kích thước 1-2 mm. Đây là hai dạng lưu tồn và lây lan chủ yếu của mầm bệnh.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Áp dụng biện pháp Phòng trị bệnh bệnh giống như đối với bệnh cháy nhũn lá, tuy nhiên, khi áp dụng thuốc cần chú ý khử đất và phun thuốc ở gốc thân.
Trả lời với trích dẫn


  #4  
Cũ 11-10-2012, 01:38 PM
dunglevo dunglevo đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2012
Bài gửi: 183
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

9. Bệnh héo rũ

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Bệnh xuất hiện ở cây con và cả cây trưởng thành. các lá dưới thấp bị vàng trước rồi lan dần lên các lá trên, sau cùng cả cây bị vàng héo, lá rụng dần. Rễ bị thối, phát triển kém. Gốc thân có nhiều sợi nấm trắng bao quanh dày đặc. Trong thân, các mô dẫn truyền có màu nâu và có nấm phát triển.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Bệnh do nấm Fusarium orthoceras Appel và Wr., F. oxysporum f. sp. glycines. Đính bào tử của nấm bệnh có hai dạng là tiểu đính bào tử (micro-conidia) và đại đính bào tử (macro-conidia), chúng được lan truyền nhờ gió và nước.

Nấm bệnh lưu tồn trong đất và trong xác cây bệnh. Nấm xâm nhiễm vào rễ qua các vết thương (do cơ học hoặc do tuyến trùng chích hút rễ) rồi phát triển lên thân, chủ yếu là làm nghẽn sự vận chuyển nước và chất dinh dưỡng trong cây, gây ra hiện tượng vàng lá và héo cây, ngòai ra nấm còn tiết độc chất hại cây.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

- Vun gốc cây con được vững chắc, tránh gây thương tích cho gốc thân và rễ trong lúc chăm sóc. Tránh trồng đậu nơi đất bị úng nước.

- Ngăn ngừa tuyến trùng trong đất.

- Phun thuốc Phòng trị bệnh bệnh như Copper B, TOPAN 70WP.

10. Các bệnh hại hạt và cây con

Hạt giống từ khi còn được mang trên cây sắp thu họach, đến giai đọan tồn trữ và được mang ra trồng, có thể bị nhiễm nhiều lọai bệnh hạt mang mầm bệnh bên trong hoặc trên lớp vỏ hạt.

- Đối với bệnh đốm phấn: các noãn bào tử đôi khi tạo nên một lớp trắng như sữa bao quanh hạt.

- Đối với bệnh hạt tím: trên hạt có vết tím.

- Đối với bệnh mốc vàng hạt: hạt bị một lớp nấm màu nâu vàng, do nấm Aspergillus sp.

- Đối với bệnh hạt nâu: hạt có màu nâu tối, do một lòai nấm Alternaria tấn công.

- Đối với một số bệnh có khả năng truyền qua hạt như chấm đỏ lá, đốm nhũn lá, khảm, ... các bệnh này thường không cho Triệu chứng bệnh trên hạt

11. Bệnh mốc vàng hạt

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Đây là bệnh phổ biến rộng ở ĐBSCL và miền Đông nam bộ. Bệnh đã gây hại khá trầm trọng, nhiều ruộng đã phải thiêu hủy tòan bộ và gieo lại, làm trễ thời vụ và hao tốn hạt giống. Qua theo dõi chúng tôi ghi nhận rằng đậu nành được thu họaxh vào mùa nắng thì sẽ ít bị nhiễm bệnh này hơn là vào mùa mưa. Cũng có ghi nhận cho rằng, giống có hàm lượng chất béo càng cao thì càng dễ nhiễm bệnh này.

Hạt bị phủ một lớp mốc màu vàng xanh, vàng sậm hoặc nâu vàng tùy theo giai đọan phát triển của bệnh. Hạt bệnh thường mất khả năng nẩy mầm, trong trường hợp nhiễm nhẹ thì hạt có thể mọc mầm được nhưng cây con phát triển yếu và chết rất nhanh.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Bệnh do nấm Aspergillus spp., nấm bệnh có thể tấn công hạt đang được tồn trữ hoặc vừa được gieo xuống đất hoặc còn được mang trong trái ngòai đồng. Nấm bệnh được lưu tồn trong không khí, trong đất, trong nước và xác cây bệnh ngòai đồng, nhưng chủ yếu là trong hạt giống.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Vệ sinh đồng ruộng, khử đất và khử hạt giống trong khi tồn trữ và trước khi gieo. Bố trí thời vụ thích hợp để khi đậu cho trái và chín không rơi vào lúc có mưa.

12. Bệnh khảm, khảm vỏ hạt

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Đây là một trong những bệnh quan trọng nhất ở nhiều nơi trên thế giới. Mức độ của bệnh tùy thuộc vào giống và khí hậu. Ở nhiệt độ cao, bệnh không biểu hiện Triệu chứng bệnh ra ngòai. Năng suất có thể giảm trên 25%. Bệnh được ghi nhận đầu tiên ở Mỹ vào những năm đầu của thập niên 1900. Bệnh hiện diện ở khắp các vùng trồng đậu nành trên thế giới. Khi bệnh xuất hiện sớm sẽ dẫn đến thất thu nặng.

Ở ĐBSCL, từ vụ đông xuân 79-80, bệnh tỏ ra khá phổ biến. Bệnh có thể xuất hiện khá sớm (vào 4 tuần sau khi gieo) và gây thiệt hại nặng ở những ruộng không được trị bệnh kịp lúc.

Lá bị mất màu, loang lổ giống như tấm khãm. Lá nhỏ lại, phát triển không đều, bìa lá cong xuống làm lá biến dạng. Phiến lá bị xếp nếp nhăn nhúm, có màu loang lổ xanh nhạt và xanh đậm và thường dày hơn lá bình thường. Dọc gân lá, mô tế bào nổi rộp lên những mụn màu xanh đậm.

Triệu chứng bệnh trên lá trông gần giống Triệu chứng bệnh đậu nành bị ngộ độc thuốc diệt cỏ 2,4 D. Việc sử dụng bất cẩn thuốc diệt cỏ cho ruộng đậu hoặc ở gần ruộng đậu, nhất là vào những ngày có gió mạnh có thể gây hại cho các ruộng đậu ở cách xa đó 30-60 m.

Cây lùn do các lóng thân phát triển kém. Trái và hạt phát triển chậm lại, nhất là các trái ở phần trên của cây. Trái chín chậm, hạt nhỏ, vỏ hạt bị đổi thành màu nâu nhạt và đậm không đều, từ tễ hạt lan ra. Triệu chứng bệnh bệnh được biểu hiện rõ ở 18,5oC. Trên 29,5oC, Triệu chứng bệnh sẽ ở dạng tiềm ẩn.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Do cực vi khuẩn SMV (soybean mosaic virus) Soja virus I (Gardner Kendrick) Smith. Soja virus I được truyền qua hạt giống, qua côn trùng mang truyền bệnh (vectors) và có thể truyền bằng cơ học. Các vectors quan trọng nhất là các lòai rầy mềm Macrosiphum, M. gei và M. pisi, và Myzus persicae, Disaulacorthum pseudosolani. Virus thuộc lọai lưu tồn không bền trong cơ thể vectors (non - persistent virus) và bị mất họat tính ở nhiệt độ 64 - 66oC trong 10 phút.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

- Ruộng sản xuất giống nên được trồng sớm và bố trí cách ly với ruộng sản xuất đại trà.

- Dùng hạt giống tốt, đầy đặn, chống bệnh hoặc từ ruộng không bị bệnh. Khử hạt trước khi gieo như đối với bệnh đốm phấn.

- Cần phát hiện bệnh sớm và tiêu hủy cây bệnh. Vệ sinh đồng ruộng, trừ cỏ dại.

- Phun thuốc phòng trừ côn trùng mang truyền mầm bệnh.

12. Bệnh bướu rễ

TRIỆU CHỨNG BỆNH

Đây là một trong vài bệnh nghiêm trọng do tuyến trùng gây ra trên đậu nành. Trồng đậu nành liên tục trên những ruộng đã bị nhiễm bệnh này thì bệnh càng gia tăng và bệnh trở nên yếu tố chính làm giới hạn năng suất. Đậu nành trồng trên đất cát sẽ dễ bị nhiễm bệnh hơn trên các lọai đất khác.

Rễ cây bệnh có những bướu to (galls) sưng phồng lên, trông dễ nhầm với các nốt sần (nodules) ở rễ, bướu thường có màu trắng và dạng thon dài, giữa bướu phình to đều ra hai bên rễ. Các bướu thường tập trung ở gần các chóp rễ, trong khi các nốt sần thường tập trung ở phần rễ gần gốc cây.

Cây có thể bị lùn, lá phát triển kém và mất màu, thay đổi màu sắc tùy theo mức độ bệnh: có màu xanh nhạt, vàng nhạt, vàng sậm rồi héo nâu và rụng sớm. Mật số tuyến trùng trong đất và đặc tính nhiễm bệnh của cây là hai yếu tố quyết định các mức độ nhiễm bệnh. Ngòai ra, các yếu tố môi trường như đất cằn và khô hạn cũng làm tăng Triệu chứng bệnh bệnh ở các bộ phận trên mặt đất. Bệnh nặng, các giống dễ nhiễm có thể chết trước khi trái chín.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Bệnh do tuyến trùng Meloidogyne spp. Loài M. incognita (common southern root knot nematode) phân bố rộng rải ở châu Phi, Úc, Ấn Độ, Nam Mỹ, Mỹ. Còn lòai M. ignorata (closely related nematode) đã gây thất thu lớn ở Brazil. Các lòai khác cũng được tìm thấy gây hại đậu nành là M. javanica (Japanese root knot nematode), M. hapla (northern root knot nematode) và M. arenaria (peanut root knot nematode), các lòai này xuất hiện trên đậu nành trồng ở Ấn Độ, Israel, Thổ Nhỉ Kỳ, châu Phi, châu Mỹ.

Trứng và ấu trùng tiền ký sinh của tuyến trùng M. incognita được tìm thấy trong đất. Ấu trùng rất nhỏ, dài khoảng 0,4 mm, là động vật có dạng dài như con lươn. Mầm bệnh thuộc nhóm nội ký sinh. Khi có ký chủ, ấu trùng chui vào rễ và phát triển thành con trưởng thành. Con trưởng thành cái có dạng quả chanh núm và to. Cách chích hút của chúng sẽ kích thích các tế bào rễ lớn bất thường, gọi là các “tế bào khổng lồ” tạo thành những u bướu. Các tế bào khổng lồ này biểu hiện sự phát triển rối loạn của cây, làm cản trở sự vận chuyển nước và dưỡng chất trong hệ thống rễ.

Kết quả của thí nghiệm “phản ứng tế bào học ở rễ của 32 loại cây trồng đối với tuyến trùng Meloidogyne javanica” của Trường ĐHNN IV, cho thấy các giống đậu nành thí nghiệm như Santa Maria, Palmetto, ĐH4, Nam Vang, đều bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, các ký chủ khác có mức độ nhiễm bệnh cao hơn như cà chua, đậu bắp, thuốc lá, dưa leo, đậu đủa, đậu cô ve, cải xanh, điền thanh hạt tròn (Sesbania paludosa) và điền thanh hoa vàng (S. canabina).

Một số cây không bị tuyến trùng M. javanica xâm nhập và gây hại là đậu phộng mõ két, đậu phộng sẻ, các loại cỏ Stylosanthes, các loại muồng như muồng sợi (Crotalaria juncea), muồng lá tròn (C. striata) và muồng lá dài (C. usaramoensis) và cây vạn thọ. Một số cây khác ít nhiễm loài tuyến trùng này là một số giống bắp (Thái hổn hợp sớm, Western yellow, Mehico 7, bắp nếp), một số giống cao lương (Cosor 1, Cosor 2, Darso, Hegari), cây đoản kiếm (cốt khí) và cây trinh nữ không gai. Ở những cây này, tuyến trùng sẽ phát triển và sinh sản kém.

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Trong sản xuất, để phòng trị bệnh này, việc sử dụng thuốc trừ tuyến trùng chưa mang lại hiệu quả cao. Nên biện pháp tốt nhất là luân canh.

Luân canh với các loại cây trồng ít nhiễm hoặc không nhiễm nêu trên. Đặc biệt, nên tận dụng các loại cây phân xanh như Stylosanthes, Crotalaria hoặc trồng cây vạn thọ trong hệ thống luân canh để tiêu diệt tuyến trùng M. javanica. Cũng cần biết rõ thành phần tuyến trùng hiện diện trong đất canh tác để chọn cây thích hợp đưa vào hệ thống luân canh, tránh thiệt hại do bệnh gây ra. Các nghiên cứu cho thấy ở bang Florida (Mỹ), đậu phộng cũng không bị nhiễm bệnh do loài M. incognita nhưng lại bị nhiễm nặng với loài M. arenaria.

Cũng có thể phòng bệnh bằng biện pháp hưu canh (summer fallow) nhằm làm giảm mật số tuyến trùng trong đất.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:11 AM


Diễn đàn được xây dựng bởi SangNhuong.com

© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.