![]() |
|
|
|
#1
|
|||
|
|||
|
Dù là nước nông nghiệp, nhưng mỗi năm VN phải tốn hàng tỉ USD để nhập khẩu hạt giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, vắc xin phòng chống dịch bệnh gia súc gia cầm... Việc quá phụ thuộc vào nước ngoài đã và đang gây ra những hệ lụy lớn. Giống là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng của cây trồng, vật nuôi, có ảnh hưởng lớn đến khâu tiêu thụ, nhất là đối với xuất khẩu. Hiện VN đang phải ồ ạt nhập khẩu con giống, cây giống để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước. ![]() Đến cà chua chúng ta cũng đang phải nhập giống, trong khi trong nước có thể tự sản xuất - Ảnh: Q.D Cây gì, con gì cũng phải nhập Theo ông Ngô Văn Giáo, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại giống cây trồng VN, hằng năm chúng ta phải chi khoảng 46 triệu USD để nhập khẩu 15.000 tấn giống lúa lai, 30 - 40 triệu USD mua gần 10.000 tấn hạt giống ngô lai và cả trăm triệu USD để nhập phần lớn hạt giống rau, nhất là hạt giống rau lai F1 từ Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan... GS Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng VN cho biết thêm, chúng ta mới chỉ tự sản xuất được khoảng 35% giống lúa lai, còn lại phải nhập từ nước ngoài. Lượng hạt giống rau và hoa ta phải nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài chiếm tới 80%. “Đang gieo trồng chủ yếu trên 30 giống rau nhưng một nửa trong số đó chúng ta không tự sản xuất được. Năm 2011, xuất khẩu rau quả đạt 600 triệu USD nhưng cả nước đã phải bỏ ra gần 100 triệu USD chỉ để nhập khẩu hạt giống”, ông Trần Khắc Thi, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu rau quả, nêu thực trạng. Điều đáng buồn là VN đang phải nhập khẩu ngay cả những giống cây mà ta hoàn toàn có thể tự sản xuất nếu như được đầu tư một cách thích đáng, như cà chua, dưa chuột, đậu bắp... “Chúng ta nhập hạt giống ngô, rau củ quả và cả lúa nữa một phần vì trình độ chọn tạo giống trong nước còn kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất thực tế, trong khi đó các DN chọn tạo giống nước ngoài giàu tiềm lực về kinh tế và công nghệ có thể tạo ra giống lai F1 chất lượng cao. Giống lai ngày càng chiếm ưu thế ở VN vì năng suất cao, đem lại giá trị kinh tế cao. Thêm vào đó, giống ngoại nhập cho rau quả thành phẩm có chất lượng đồng đều, phù hợp cho chế biến công nghiệp và xuất khẩu”, ông Thi phân tích. Tương tự, hiện nông dân đang nuôi rất nhiều ngan, gà, heo từ nguồn giống do nước ngoài sản xuất và cung cấp. Cục phó Cục Chăn nuôi Nguyễn Thanh Sơn thừa nhận VN đang phụ thuộc gần như hoàn toàn nguồn giống gà lông trắng vào các công ty nước ngoài. Chỉ riêng năm 2011, cả nước đã nhập tới 2 triệu con gà bố mẹ. Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi VN, giống heo bản địa tăng trọng thấp, chỉ 160 - 200 g/ngày trong khi heo ngoại có thể tăng tới 400 - 500 g/ngày. Gà ngoại thì chỉ cần 40 ngày đã đạt 1,5 kg/con nhưng đối với gà ta phải mất tới 160 ngày. “Không thể địch nổi đâu. Chúng ta đang phải nhập khẩu giống đầu dòng đối với heo và phụ thuộc gần như hoàn toàn về giống gà lông trắng”, ông Lịch nói. Nỗi đau “gà lông trắng” Tình trạng phụ thuộc giống là cơ hội cho các DN nước ngoài ép giá. Chẳng hạn với gà giống lông trắng, thời gian qua đã có dấu hiệu cho thấy các DN nước ngoài tung chiêu làm giá khiến các chủ trang trại gặp khốn khó. Từ tháng 6.2011, giá thịt gà tăng cao kỷ lục, giá gà giống tăng chóng mặt. Thế nhưng, theo ông Nguyễn Thanh Sơn, sau khi giá thực phẩm hạ nhiệt, giá gà giống lông màu giảm đáng kể thì giá gà lông trắng vẫn đứng ở mức rất cao, khoảng 22.000 đồng/con, bất chấp giá thành chỉ ở mức 12.000 đồng/con. “Bán với giá đó là siêu lợi nhuận và có yếu tố làm giá. Gà giống lông trắng chủ yếu là do các DN nước ngoài sản xuất và cung ứng cho các trang trại trong nước. Họ chiếm thị phần lớn nên hoàn toàn có thể làm giá”, ông Sơn nói. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Diệp Kỉnh Tần bức xúc: “Giá gà giống lông trắng cao như thế là không thể chấp nhận được. Với giá đó, người chăn nuôi gia cầm chắc là chẳng được lợi gì. Thời gian qua chúng ta chú trọng sản xuất gà giống lông màu mà bỏ quên gà giống lông trắng. Cái thiếu không làm, chúng ta lại đổ xô đi sản xuất cái đã thừa nên mới bị DN nước ngoài lợi dụng sự khan hiếm gà giống lông trắng để thổi giá”. Câu chuyện về giá gà lông trắng giống hoàn toàn có thể lặp lại đối với những nông dân trồng rau, quả, hoa, thậm chí cả lúa gạo. Hiện nay, VN đang trong quá trình khảo nghiệm các giống ngô biến đổi gien do các tập đoàn giống là những “người khổng lồ” trong lĩnh vực chọn tạo giống trên thế giới cung cấp. Tuy chưa quyết định cho trồng đại trà các giống ngô này trên đồng ruộng, nhưng các chuyên gia nông nghiệp cũng đã cảnh báo mạnh mẽ về nguy cơ lệ thuộc hoàn toàn vào các công ty nước ngoài về nguồn giống. Các nhà khoa học cho rằng, giống ngô biến đổi gien có giá rất cao, ước tính cao gấp 7 lần so với giống ngô người nông dân trong nước đang trồng. Khi giống ngô biến đổi gien đã chiếm ưu thế, việc quay trở lại với giống truyền thống sẽ rất khó nếu không muốn nói là không thể. Sự lệ thuộc triền miên vào các DN nước ngoài về giống biến đổi gien sẽ thể hiện rõ nét qua việc nông dân ta hằng vụ phải đi mua giống để trồng hoặc nhà nước sẽ phải bỏ tiền mua gien cho các viện nghiên cứu trong nước tạo giống chuyển gien để bán cho nông dân. Ông Ngô Văn Giáo cho rằng thị trường hạt giống ở nước ta rất tiềm năng nhưng các DN trong nước còn nhỏ bé, ít vốn, công nghệ lạc hậu, chỉ chiếm thị phần không đáng kể so với các công ty đa quốc gia đang có mặt tại VN, nên nguy cơ DN nước ta trở thành nhà phân phối cho các công ty đa quốc gia nhiều khả năng sẽ xảy ra trong tương lai không xa. Còn theo GS Long, nhập khẩu ồ ạt các loại hạt giống đặc biệt là hạt rau và hoa... là điều tối kỵ. “Ngoài việc phụ thuộc vào nguồn giống từ nước ngoài, nguy cơ bị ép giá là nhãn tiền thì một khi phần lớn giống của mình là nhập ngoại, sản xuất ra hàng hóa, bán trong nội địa không có vấn đề gì, nhưng xuất khẩu với số lượng lớn ra thị trường thế giới sẽ lại vấp phải vấn đề bản quyền”, GS Long nói. Quang Duẩn |
|
#2
|
|||
|
|||
|
Không chỉ phụ thuộc về giống, nông nghiệp VN còn phụ thuộc về phân bón và thức ăn chăn nuôi khi phải nhập khẩu 50% lượng phân đạm và phân lân, trên 70% lượng nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi. Thua trên sân nhà Từ năm 2011 đến nay, VN đã phải chi hơn 2 tỉ USD để nhập trên 5 triệu tấn phân bón. Tuy Hiệp hội Phân bón VN vừa phát đi tin vui rằng năm 2012, lần đầu tiên VN sẽ xuất khẩu urê do Nhà máy đạm Cà Mau và Nhà máy phân bón Ninh Bình đi vào hoạt động, nhưng thực tế là các cánh đồng ngô, khoai, lúa… vẫn đang phải tiếp tục “ăn” kali, phân SA, DAP nhập khẩu. Theo tính toán, nhu cầu phân bón cho sản xuất nông nghiệp nước ta hằng năm vào khoảng 8,5 triệu tấn các loại. Trong đó, phân lân, NPK và bây giờ là urê thì sản xuất trong nước đã cơ bản đáp ứng nhu cầu. Riêng phân DAP các nhà máy trong nước mới đáp ứng được trên 50% nhu cầu; kali mỗi năm cần khoảng 800.000 - 900.000 tấn thì trong nước không sản xuất được nên phải nhập khẩu hoàn toàn. Về thức ăn chăn nuôi, theo Bộ NN-PTNT, năm 2011, cả nước phải chi tới 3,7 tỉ USD nhập 8,9 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi gồm ngô, cám nguyên liệu các loại, lúa mì, đậu tương hạt, khô dầu và thức ăn bổ sung khác. Chỉ trong 3 tháng đầu năm nay, chúng ta đã đem 476 triệu USD để “đổi” lấy các loại nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi, trong đó có cả những loại nước ta có đủ điều kiện để sản xuất và đáp ứng đủ nhu cầu như bắp, đậu tương, sắn, bột cá... Ông Nguyễn Xuân Dương, Cục phó Cục Chăn nuôi, thừa nhận VN đang phải nhập 35% về lượng và trên 45% về mặt giá trị đối với tổng nhu cầu thức ăn chăn nuôi mỗi năm (24 triệu tấn). Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi VN, thức ăn chăn nuôi luôn chiếm 65 - 70% giá thành sản phẩm chăn nuôi nhưng nguyên liệu làm thức ăn ở nước ta thiếu nghiêm trọng, phải nhập khẩu là điều rất bất lợi. “Chúng ta đang quá phụ thuộc vào nước ngoài. Tình trạng này khiến giá cả thức ăn chăn nuôi trở thành một trong những nguyên nhân chính làm cho giá thành sản xuất chăn nuôi bị đội lên”, ông Lịch nói. Các chuyên gia kinh tế cho biết, giá thành chăn nuôi tại VN hiện nay quá cao, hơn 20% so với các nước trong khu vực, trong khi các nước này cũng có giá thành cao hơn 20% so với các nước có nền chăn nuôi phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là do giá thức ăn chăn nuôi cao. Ngay tại “sân nhà”, chúng ta cũng phụ thuộc vào doanh nghiệp (DN) nước ngoài đang nắm giữ phần lớn thị phần thức ăn chăn nuôi. Ông Dương thừa nhận tuy chỉ có 56 trong tổng số 233 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi đang hoạt động trên cả nước nhưng các DN nước ngoài lại giữ tới hơn 60% thị phần, trên 60% sản lượng. Riêng với thức ăn cho tôm, theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Uni President, CP, Tom Boy… đang nắm trong tay tới 95% thị phần. Ông Lịch bức xúc: “Các DN sản xuất thức ăn chăn nuôi nước ngoài như Cargill, CP, Proconco, New Hope… đang chiếm phần lớn thị phần, chi phối thị trường nội địa. Như vậy, thêm một lần nữa chúng ta phụ thuộc vào nước ngoài. Họ mạnh hơn về vốn và chiến lược đầu tư, chưa kể đến yếu tố kỹ thuật. Phải nói trắng là chúng ta đang thua trên sân nhà. Nơi hẻo lánh nhất họ cũng đã có mặt”. Theo ông Lịch, hệ lụy của việc này là các DN nước ngoài nắm giữ giá cả vì ai nắm được thị phần thì người đó có lợi thế về mặt điều chỉnh giá cả. ![]() Do phụ thuộc vào hàng ngoại nên giá thức ăn chăn nuôi quá cao khiến người chăn nuôi hết sức khó khăn - Ảnh: Ngọc Thắng Đem “đô” mua vắc xin Liên tiếp trong nhiều năm qua, dịch cúm gia cầm, heo tai xanh, lở mồm long móng xảy ra liên miên. Năm 2011, VN được đánh giá là khống chế tốt các dịch bệnh nguy hiểm này nhưng cũng đã có tới 2.293.607 con trâu, bò, lợn và gà mắc bệnh, trong đó hơn 217.000 con chết hoặc bị tiêu hủy. Cơ quan thú y nhận định, dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp trong nhiều năm tới và đang nỗ lực triển khai các biện pháp cấp bách, lâu dài để “sống chung với dịch”. Vắc xin vẫn được xác định là “vũ khí” chính trong phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, hiện nay, VN đang gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vắc xin cúm gia cầm, heo tai xanh và lở mồm long móng do nước ngoài sản xuất và cung cấp, trong đó chủ yếu là từ Trung Quốc. Chỉ riêng vắc xin cúm gia cầm, từ năm 2005 đến 2010, cả nước đã phải chi 426 tỉ đồng mua trên 1,9 tỉ liều để phục vụ công tác phòng chống dịch bệnh. Điều đáng nói, việc phụ thuộc hoàn toàn vào vắc xin nhập khẩu sẽ dẫn đến nguy cơ bị động, thiếu hoặc vắc xin về không đúng thời điểm, khiến công tác phòng chống dịch bệnh nguy hiểm không đạt được hiệu quả như mong muốn. Ông Lê Minh Sắt, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học - Công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học - Công nghệ), nêu thực trạng: “20 năm qua chúng ta bắt tay nghiên cứu để tự chế tạo ra sản phẩm vắc xin “made in Việt Nam” nhưng đến bây giờ vẫn chưa thành công là điều đáng tiếc. Vắc xin phòng dịch tai xanh vẫn dựa vào nhập khẩu và chắc sẽ còn phải nhập dài dài”. Nguyên nhân, theo ông Sắt, việc nghiên cứu chế tạo vắc xin lở mồm long móng đòi hỏi nguồn kinh phí lớn và phương tiện hiện đại, công nghệ cao mà chúng ta chưa thể đáp ứng. Ông Bùi Quang Anh, nguyên Cục trưởng Cục Thú y, nói rằng điều kiện cơ sở vật chất và nguồn lực con người trong nghiên cứu và sản xuất vắc xin lở mồm long móng của chúng ta còn hạn chế. “Muốn thành công, nhất thiết chúng ta phải liên kết với đối tác nước ngoài”, ông Anh nói. Theo ông Sắt, mới đây Công ty Navesco đã nghiên cứu và sản xuất thành công vắc xin cúm gia cầm. Tuy nhiên, vắc xin này cũng chỉ có thể đáp ứng được với chủng vi rút cũ, vô hiệu đối với nhánh vi rút đã biến đổi nên cũng không đáp ứng được thực tế phòng chống dịch. Chúng ta đang cứ phải chạy theo trong việc nghiên cứu sản xuất vắc xin. Nếu cứ chậm chân như nhiều năm qua, chắc chắn, tình trạng phải tốn rất nhiều ngoại tệ để nhập khẩu vắc xin sẽ khó có thể được cải thiện bởi các công ty nước ngoài luôn “về đích trước” trong cuộc đua tìm vắc xin mới. Quang Duẩn Nguồn: Báo Thanh Niên |
|
#3
|
|||
|
|||
|
TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn (ảnh), Giám đốc Trung tâm tư vấn chính sách nông nghiệp (Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông thôn) đã cảnh báo như vậy khi trả lời Báo Thanh Niên về thực trạng phụ thuộc cây giống, con giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, phân bón vào nước ngoài.
![]() Theo TS Tuấn, một đất nước nông nghiệp mà mỗi năm phải tiêu tốn hàng tỉ USD để nhập khẩu vật tư đầu vào phục vụ sản xuất là điều đáng buồn. Câu chuyện không vui này đã được nhìn nhận từ nhiều năm qua nhưng loay hoay mãi chúng ta vẫn chưa cải thiện được. Nếu không có những giải pháp mang tính đột phá để giảm bớt sự lệ thuộc, từng bước tự chủ các yếu tố đầu vào, chúng ta sẽ phải đối mặt với rất nhiều hệ lụy. Nguy hiểm nhất là trở thành ngành nông nghiệp gia công. Theo ông, đâu là nguyên nhân của tình trạng phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào từ nước ngoài? Có rất nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến tình trạng chúng ta chưa chủ động được các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Đầu tư cho khoa học công nghệ trong nông nghiệp mặc dù được quan tâm nhưng vẫn còn hạn chế. So với các nước trong khu vực thì mức đầu tư của chúng ta vẫn còn thấp. Trong khi đó, cơ chế quản lý đối với các viện nghiên cứu như hiện nay chưa cho phép cán bộ khoa học “bung” hết sức. Dễ hiểu khi các nhà nghiên cứu nông nghiệp thường bị các doanh nghiệp nước ngoài “săn đầu người”. Thành ra, các thành tựu đạt được trong nghiên cứu chọn tạo giống, làm chủ công nghệ sản xuất các loại vắc xin phòng chống dịch cúm gia cầm, heo tai xanh, lở mồm long móng... còn hạn chế. Thậm chí, nếu chúng ta sản xuất được, thì giá thành lại cao, không địch nổi với sản phẩm cùng loại do các nước khác sản xuất và cung ứng. ![]() Phân bón được nhập khẩu tại cảng Sài Gòn - Ảnh: Diệp Đức Minh Cơ sở hạ tầng cũng đang “tạo” ra những rủi ro nhất định cho doanh nghiệp (DN) khi đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các yếu tố đầu vào. Chẳng hạn, chúng ta chưa có các vùng chuyên canh đủ lớn, có cơ sở hạ tầng hoàn thiện để DN trong nước tự tin đầu tư lớn. Lập DN nhỏ thì sao mà địch nổi khi gặp DN nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia. Và sức trạnh tranh với hàng nhập khẩu cũng sẽ rất yếu ớt. Chính sách về tín dụng cho DN nông nghiệp chưa quan tâm đúng tầm. Dù được ưu đãi nhưng các DN vẫn rất khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn, đã thế lãi suất lại đứng ở mức cao. Có một nguyên nhân nữa là việc chúng ta thấy khó vì công ty nước ngoài đã chiếm sẵn thị trường trong nước, hoặc nếu cố làm thì giá thành của chúng ta vẫn cao hơn, không thể cạnh tranh nổi nên thà cứ nhập khẩu còn hơn. Ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào? Về mặt kinh tế, trước mắt thì có vẻ ổn đấy nhưng về lâu dài, rõ ràng, điều này là hết sức nguy hại. Lúc ấy, nó rất dễ sinh ra tình trạng một số DN lớn của nước ngoài nắm vị trí độc quyền. Các DN này hoàn toàn có thể dùng đầu vào để khống chế đầu ra. Khi đó, những người nông dân bình thường gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, các DN nước ngoài hoàn toàn có thể chiếm thế thượng phong. Vậy theo ông, chúng ta cần phải làm gì để không còn quá phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào từ các nước? Có một loạt các việc chúng ta cần phải làm. Đầu tiên cần quy hoạch lại ngành công nghiệp trên cơ sở nghiên cứu xác định hiệu quả cân đối giữa vật tư, thiết bị máy móc phục vụ nông nghiệp sản xuất trong nước với vật tư, thiết bị cần nhập khẩu. Áp dụng chính sách đặc biệt ưu đãi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước phát triển ngành cơ khí sản xuất, sửa chữa máy móc nông nghiệp, tàu thuyền phục vụ thủy sản. Đặc biệt ưu tiên hỗ trợ những ngành áp dụng công nghệ cao, có tỷ lệ nội địa hóa cao, thu hút đầu tư trong nước, phù hợp với điều kiện VN. Hỗ trợ cho các làng nghề, các hộ ở nông thôn, tham gia tổ chức sản xuất và làm dịch vụ bảo dưỡng, nâng cấp các công cụ sản xuất tại địa phương. Áp dụng chính sách đặc biệt khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp sản xuất sửa chữa máy móc nông nghiệp, chế biến thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y và các loại vắc xin phòng bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước. Cải tiến hệ thống quản lý thị trường, phân phối lưu thông những vật tư nông nghiệp chiến lược như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, giống vật nuôi cây trồng... theo hướng chuyển từ vai trò quản lý thị trường và can thiệp chính sách từ hiệp hội các DN lớn sang các tổ chức đại diện cho nông dân và người sản xuất như Hội Nông dân, Liên minh Hợp tác xã... Quang Duẩn |
![]() |
| Công cụ bài viết | |
| Kiểu hiển thị | |
|
|